Tiến Sĩ Tình trạng tăng acid uric huyết thanh, yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp chế độ ăn ở người 30 t

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    Trang phụ bìa i
    Lời cam đoan ii
    Lời cảm ơn iii
    Mục lục iv
    Danh mục các chữ viết tắt .vi
    Danh mục các bảng vii
    Danh mục các biểu đồ ix
    ĐẶT VẤN ĐỀ . 1
    CHƯƠNG I .TỔNG QUAN 3
    1.1. Đại cương về acid uric 3
    1.2. Một số nghiên cứu về tăng acid uric huyết thanh 4
    1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới . 4
    1.2.2. Nghiên cứu về tăng acid uric huyết thanh ở Việt Nam . 6
    1.3. Các yếu tố liên quan tới tăng acid uric huyết thanh . 7
    1.3.1. Liên quan đến đặc điểm nhân khẩu học . 7
    1.3.2. Yếu tố di truyền và đột biến gen . 10
    1.3.3. Chế độ ăn 13
    1.3.4. Hoạt động thể lực 17
    1.3.5. Tăng acid uric huyết thanh liên quan đến một số bệnh tăng hủy tế bào 17
    1.3.6. Tăng acid uric huyết thanh do giảm đào thải qua thận. . 18
    1.3.7. Mối liên quan giữa tăng acid uric huyết thanh với một số bệnh mạn
    tính không lây nhiễm . 19
    1.3.8. Tăng acid uric huyết thanh do dùng thuốc . 29
    1.4. Các biện pháp can thiệp giảm nồng độ acid uric huyết thanh 31
    1.4.1. Sử dụng thuốc giúp giảm acid uric huyết thanh . 31
    1.4.2. Kiểm soát tình trạng dinh dưỡng 32
    1.4.3. Kiểm soát chế độ ăn . 33
    CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
    2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 40
    2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 40 v
    2.1.2. Thời gian nghiên cứu . 40
    2.1.3. Địa điểm nghiên cứu . 41
    2.2. Phương pháp nghiên cứu 41
    2.2.1. Thiết kế nghiên cứu . 41
    2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu . 44
    2.2.3. Các chỉ số và biến số nghiên cứu . 51
    2.2.4. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu . 47
    2.3. Quá trình tổ chức nghiên cứu 55
    2.3. Quá trình tổ chức nghiên cứu 56
    2.4. Biện pháp khống chế sai số . 58
    2.5. Các yếu tố rủi ro trong quá trình thực hiện và cách khắc phục 59
    2.6. Xử lý và phân tích số liệu . 60
    2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu . 61
    CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 63
    3.1. Tình trạng tăng acid uric huyết thanh ở người 30 tuổi trở lên vùng nông
    thôn Thái Bình 63
    3.2. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng tăng acid uric huyết thanh 75
    3.3. Hiệu quả can thiệp khẩu phần đến nồng độ acid uric huyết thanh . 85
    CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN 97
    4.1. Tình trạng tăng acid uric huyết thanh ở người 30 tuổi trở lên tại cộng đồng
    nông thôn Thái Bình. . 97
    4.2. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng tăng acid uric huyết thanh 106
    4.3. Đánh giá tác dụng của can thiệp khẩu phần đến nồng độ acid uric huyết
    thanh . 119
    4.4. Những ưu điểm và tính mới của nghiên cứu . 127
    4.5. Những hạn chế của nghiên cứu . 127
    KẾT LUẬN . 128
    KIẾN NGHỊ 130
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    PHỤ LỤC vi
    DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
    AU Acid uric
    BMI Body Mass Index: Chỉ số khối cơ thể
    ĐTĐ Đái tháo đường
    HATĐ Huyết áp tối đa
    HATT Huyết áp tối thiểu
    HAU High acid uric: Tăng acid uric
    HCCH Hội chứng chuyển hóa
    HDL-C High Density Lipoprotein Cholesterol:
    Cholesterol tỷ trọng cao
    LDL-C Low Density Lipoprotein Chlesterol:
    Cholesterol tỷ trọng thấp
    LTTP Lương thực, thực phẩm
    NMCT Nhồi máu cơ tim
    TCBP Thừa cân, béo phì
    THA Tăng huyết áp
    THCS Trung học cơ sở
    THPT Trung học phổ thông
    TTDD Tình trạng dinh dưỡng
    RLLM Rối loạn lipid máu
    WHO World Health Organisation: Tổ chức Y tế thế giới
    WHR Waist Hip Ratio: Tỷ số vòng eo/vòng mông vii
    DANH MỤC CÁC BẢNG
    Bảng Tên bảng Trang
    3.1. Đặc điểm về nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu 63
    3.2. Giá trị trung bình một số chỉ số nhân trắc, huyết áp và xét nghiệm . 64
    3.3. Đặc điểm tình trạng dinh dưỡng và mức độ hoạt động thể lực . 65
    3.4. Tỷ lệ hiện mắc và tiền sử mắc một số bệnh lý liên quan 66
    3.5. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo giới tính . 68
    3.6. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo một số chỉ số nhân
    trắc 70
    3.7. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo tình trạng huyết áp
    của đối tượng nghiên cứu 71
    3.8. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo một số chỉ số lipid
    máu . 72
    3.9. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo chỉ số đường huyết
    73
    3.10. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo số yếu tố của hội
    chứng chuyển hóa 74
    3.11. Giá trị trung bình và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo một số yếu tố tiền
    sử 74
    3.12. Hệ số tương quan giữa nồng độ acid uric huyết thanh với một số chỉ số
    nhân trắc, huyết áp và hóa sinh máu 75
    3.13. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến tiên lượng nồng độ acid uric huyết
    thanh theo một số chỉ số tuổi, giới, nhân trắc, huyết áp 77
    3.14. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với nhóm tuổi và giới tính . 78
    3.15. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với một số chỉ số nhân trắc . 79
    3.16. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với tình trạng huyết áp 79
    3.17. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với một số chỉ số hóa sinh máu . 80
    3.18. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với tiền sử một số bệnh lý . 81
    3.19. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với hút thuốc, sử dụng rượu bia 82 viii
    3.20. Liên quan giữa tỷ lệ tăng acid uric với tần xuất sử dụng một số nhóm thực
    phẩm . 83
    3.21. Phân tích hồi quy logistic đa biến giữa tăng acid uric huyết thanh với một
    số yếu tố liên quan theo giới tính . 84
    3.22. Đặc điểm đối tượng tham gia trong nghiên cứu can thiệp 85
    3.23. Hiệu quả giảm acid uric huyết thanh sau 6 tháng can thiệp . 85
    3.24. Hiệu quả giảm acid uric huyết thanh theo nhóm tuổi 87
    3.25. Hiệu quả giảm acid uric huyết thanh theo giới tính 88
    3.26. Hiệu quả can thiệp lên tần xuất tiêu thụ thường xuyên một số nhóm thực
    phẩm . 90
    3.27. Hiệu quả can thiệp đối với mức tiêu thụ thực phẩm nhóm 30-60 tuổi 91
    3.28. Hiệu quả can thiệp đối với mức tiêu thụ thực phẩm nhóm trên 60 tuổi 92
    3.29. So sánh giá trị dinh dưỡng khẩu phần giữa 2 nhóm trước, sau can thiệp
    nhóm 30-60 tuổi 93
    3.30. So sánh giá trị dinh dưỡng khẩu phần giữa 2 nhóm trước, sau can thiệp
    nhóm trên 60 tuổi 94

    ix
    DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

    Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
    3.1. Phân bố nồng độ acid uric huyết thanh theo giới tính 67
    3.2. Nồng độ acid uric huyết thanh trung bình theo nhóm tuổi và giới tính 68
    3.3. Tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo nhóm tuổi 69
    3.4. Tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo mức độ hoạt động thể lực 71
    3.5. Tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh theo nhóm rối loạn lipid máu 73
    3.6. Tương quan giữa nồng độ acid uric huyết thanh và một số chỉ số . 76
    3.7. Nồng độ acid uric huyết thanh trước, sau can thiệp của 2 nhóm 86
    3.8. Mức giảm acid uric huyết thanh sau can thiệp theo nhóm tuổi 87
    3.9. Mức giảm acid uric huyết thanh sau can thiệp theo giới tính . 89
    310. Tần xuất tiêu thụ thực phẩm thường xuyên theo nhóm acid uric sau can
    thiệp 89
    3.11. Cơ cấu năng lượng khẩu phần trước, sau can thiệp nhóm 30-60 tuổi . 95
    3.12. Cơ cấu năng lượng khẩu phần trước sau can thiệp nhóm trên 60 tuổi 95 ĐẶT VẤN ĐỀ
    Trong hai thập kỷ qua, mô hình bệnh tật của Việt Nam đã có sự thay đổi
    sâu sắc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số người mắc các bệnh lý chuyển
    hóa liên quan đến thói quen sinh hoạt và chế độ ăn uống như đái tháo đường, rối
    loạn chuyển hóa lipid, glucid . ngày càng tăng và trở thành một vấn đề rất quan
    trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Xu thế này đã được các
    chuyên gia y tế cảnh báo “thế kỷ 21 là thế kỷ của các bệnh nội tiết, rối loạn
    chuyển hóa” [46]. Gánh nặng của các bệnh mạn tính không lây nhiễm gặp chủ
    yếu ở các nước có thu nhập trung bình và thấp [143]. Nghiên cứu của các tác giả
    trong và ngoài nước đã xác định chính sự thay đổi thói quen trong ăn uống, sinh
    hoạt và thay đổi môi trường sống có tác động quan trọng đến sự thay đổi mô hình
    bệnh tật và nguyên nhân tử vong như hiện nay [24],[103],[125],[142].
    Tăng acid uric huyết thanh là một trong những rối loạn chuyển hóa, có
    liên quan chặt chẽ đến hàng loạt các bệnh mạn tính không lây nhiễm như nhồi
    máu cơ tim, đột quỵ, đái tháo đường, gút [54],[76],[93]. Chủ đề này đã thu hút
    nhiều tác giả quan tâm nhưng các nghiên cứu mới chỉ tập trung ở các thành phố
    lớn và trong bệnh viện là chủ yếu [7],[15],[35]. Một số nghiên cứu tiến hành trên
    các đối tượng đến khám sức khỏe định kỳ hoặc trên các đối tượng được quản lý
    sức khỏe. Hiện chưa có những công trình nghiên cứu đầy đủ về dịch tễ học tăng
    acid uric huyết thanh và các can thiệp dự phòng tại cộng đồng. Trong khi đó,
    nhiều bằng chứng khoa học đã cho thấy hiệu quả của các chương trình can thiệp
    cộng đồng trong giảm bớt nguy cơ mắc và tử vong do các bệnh lý liên quan đến
    rối loạn chuyển hóa [59],[117],[140].
    Thái Bình là một tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi cũng đang có sự
    chuyển tiếp về cơ cấu bệnh tật. Một số bệnh mạn tính không lây nhiễm liên quan
    đến các rối loạn chuyển hóa có xu hướng gia tăng [10],[12],[32]. Vì thế, phát
    hiện sớm và kiểm soát tình trạng tăng acid uric huyết thanh khi chưa có biểu hiện
    lâm sàng là rất cần thiết để góp phần giảm nguy cơ mắc một số bệnh mạn tính
    2
    không lây nhiễm. Đồng thời, việc xác định được các yếu tố liên quan sẽ là cơ sở
    khoa học để lựa chọn các biện pháp can thiệp cộng đồng phù hợp và đặc thù.
    Với giả thiết tăng acid uric huyết thanh cùng với các rối loạn chuyển hóa ở
    nông thôn đang trở thành một vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng và thực hiện
    tư vấn chế độ ăn sẽ góp phần kiểm soát được nồng độ acid uric huyết thanh, đề
    tài luận án đã được nghiên cứu với 3 mục tiêu:
    1. Mô tả tình trạng tăng acid uric huyết thanh ở người 30 tuổi trở lên tại
    cộng đồng nông thôn Thái Bình.
    2. Xác định một số yếu tố liên quan tới tình trạng tăng acid uric huyết
    thanh tại địa bàn nghiên cứu.
    3. Đánh giá hiệu quả can thiệp chế độ ăn cho người tăng acid uric huyết
    thanh tại cộng đồng.

    3
    CHƯƠNG I
    TỔNG QUAN
    1.1. Đại cương về acid uric
    Acid uric là sản phẩm chuyển hóa cuối cùng của nucleotid có nhân purin.
    Sản phẩm này được hình thành từ 3 nguồn: nguồn thoái giáng các nucleotid từ
    thức ăn, thoái giáng các nucleoprotein do quá trình hủy tế bào trong cơ thể hoặc
    tạo ra từ sự tổng hợp nội sinh các nucleoprotein. Việc tổng hợp và chuyển hóa
    purin xảy ra ở mọi tổ chức nhưng sự tổng hợp acid uric chỉ diễn ra ở các tổ chức
    có chứa enzym xanthin oxydase (thực hiện chủ yếu ở gan và ruột non). Bình
    thường lượng acid uric được tạo ra hàng ngày từ tổng hợp nội sinh khoảng
    350mg và từ purin của thức ăn khoảng 300mg. Lượng acid uric đào thải ra khỏi
    cơ thể hàng ngày cũng tương đương, khoảng 650 mg, chủ yếu qua thận (80%) và
    một phần thải qua đường tiêu hóa. Ở pH 7,4 trong huyết tương, acid uric tồn tại
    chủ yếu dưới dạng monosodium urat. Nồng độ acid uric huyết thanh trung bình ở
    nam giới là 50 ±29mg/l (hay 180-420 µmol/l) và ở nữ là 40 ± 20mg/l (hay 150-
    360 µmol/l). Tăng acid uric huyết thanh được xác định khi nồng độ >420 µmol/l
    ở nam và > 360 µmol/l ở nữ. Ngưỡng xác định này dựa trên các yếu tố vật lý, hóa
    học, tính đến sự hòa tan của sodium urat ở 37
    o
    C, với pH khoảng 7,4 trong huyết
    tương. Tăng acid uric có 2 loại nguyên phát, thứ phát và được phân biệt theo cơ
    chế bệnh sinh và chẩn đoán. Vì thế tăng acid uric huyết thanh được phân loại
    theo 3 nhóm tăng acid uric do tăng tổng hợp, do giảm đào thải hoặc phối hợp cả
    tăng tổng hợp và giảm đào thải.
    Khi nồng độ acid uric tăng cao quá mức bão hòa trong huyết tương, cộng
    với một số điều kiện vật lý, sự lắng đọng của sodium urat ở cơ quan đích trong
    cơ thể sẽ xảy ra. Sự lắng đọng này gây tổn thương nhiều cơ quan như mạch máu,
    tim, mắt, màng não, cơ quan sinh dục mà điển hình là sự lắng đọng ở khớp gây
    nên các cơn gút cấp do quá trình viêm khớp tái phát nhiều lần. Không chỉ có vậy,
    tăng acid uric còn có mối liên quan chặt chẽ đến nhiều bệnh lý khác. Các tác giả
    4
    Frederick Mahomed, Alexandre Haig và Nathan Smith Davis là những người đầu
    tiên đưa ra giả thuyết tăng acid uric gây tăng huyết áp và bệnh thận [75],[76]. Sau
    đó, đến giữa thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ XX xuất hiện hàng loạt
    những công trình nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa acid uric với các biến
    cố tim mạch bao gồm tăng huyết áp, hội chứng chuyển hóa, bệnh mạch vành,
    bệnh mạch máu não, tiền sản giật và cả bệnh thận [76].
    1.2. Một số nghiên cứu về tăng acid uric huyết thanh
    1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
    Các rối loạn chuyển hóa và bệnh lý liên quan đến tăng acid uric huyết
    thanh cũng đã được biết đến từ lâu. Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhiều nghiên cứu
    về tăng acid uric huyết thanh, cùng với các tiến bộ mới trong khoa học kỹ thuật
    đã cung cấp một số phát hiện mới về cơ chế bệnh sinh, đặc điểm dịch tễ học, quá
    trình chuyển hóa urat tại thận, quá trình viêm, miễn dịch, yếu tố gen, chế độ ăn,
    sử dụng thuốc, vai trò của acid uric trong các bệnh lý mạn tính không lây khác
    [123],[133],[138],[144].Tỷ lệ người trưởng thành bị tăng acid uric huyết thanh có
    xu hướng gia tăng nhanh trong hai thập kỷ qua ở cả các nước phát triển và các
    nước đang phát triển. Kết quả nghiên cứu ở Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Nhật Bản cho
    thấy tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh trong khoảng 13-25% tùy từng khu vực. Tỷ
    lệ này ở các nước đang phát triển cũng chiếm khoảng từ 10-15% dân số trưởng
    thành [51],[74],[81]. Tăng acid uric huyết thanh có liên quan mật thiết đến sự
    phát triển của nền kinh tế mà biểu hiện trực tiếp là sự thay đổi lối sống và chế độ
    ăn. Nồng độ acid uric huyết thanh trung bình đã tăng lên nhanh chóng trong thời
    gian gần đây. Nghiên cứu thuần tập theo dõi dữ liệu Y khoa trong 50 năm cho
    thấy nếu như giai đoạn 1954 -1958, nồng độ acid uric huyết thanh trung bình là
    5mg/dl ở nam và 3,9mg/dl ở nữ thì đến giai đoạn 1972-1976, Giá trị trung bình
    đã tăng lên 5,7mg/dl ở nam và 4,7mg/dl ở nữ [55]. Kết quả phân tích gộp một số
    nghiên cứu về tỷ lệ tăng acid uric và bệnh gút đã cho thấy New Zealand là một
    trong những nước có tỷ lệ mắc cao nhất, đặc biệt là trong cộng đồng người thổ
    dân Maori, tỷ lệ mắc bệnh gút ở người trên 65 tuổi của tộc người này chiếm tới
    5
    trên 25% [145]. Mỹ cũng là một nước có tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh và bệnh
    gút khá cao và bệnh có xu hướng tăng nhanh trong hai thập kỷ qua. Nghiên cứu
    Zhu cho biết nồng độ acid uric huyết thanh trung bình ở nam giới là 6,14mg/dl và
    ở nữ giới là 4,87mg/dl, tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh khoảng 20% dân số.
    Tương ứng với tỷ lệ tăng acid uric, tỷ lệ mắc bệnh gút ở Mỹ cũng chiếm tỷ lệ khá
    cao 3,9% (trong đó nam giới chiếm 5,9%, nữ giới chiếm 2%) [153]. Robinson
    thực hiện phân tích tổng hợp các nghiên cứu về tăng acid uric tại Úc cho thấy tỷ
    lệ tăng acid uric huyết thanh và bệnh gút chiếm tỷ lệ cao so với một số nước
    trong khu vực có cùng điều kiện kinh tế. Xu hướng này hiện tại cũng đang có
    chiều hướng ngày càng gia tăng. Tỷ lệ tăng acid uric đã tăng nhanh từ năm 1959
    so với năm 1980 (17% ở nam giới độ tuổi 30-40) ở quần thể dân cư gốc Úc.
    Tương ứng, tỷ lệ mắc bệnh gút cũng tăng từ 0% năm 1965 đến 9,7% ở nam và
    2% ở nữ năm 2002. Tỷ lệ mắc bệnh gút ở người cao tuổi của Úc đứng hàng thứ 2
    sau New Zealand là nước có báo cáo tỷ lệ mắc bệnh gút cao nhất thế giới [122].
    Tác giả Sari nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết, tỷ lệ tăng acid uric trong cộng
    đồng dân cư khu vực thành thị là 12,1% và tỷ lệ mắc có liên quan đến các bệnh
    lý tăng huyết áp, tim mạch, đái tháo đường và hội chứng chuyển hóa [128].
    Nghiên cứu của Chuang đánh giá xu hướng về tăng acid uric huyết thanh
    ở người trưởng thành Đài Loan trong 2 giai đoạn 1993-1996 và 2005-2008 lại
    cho thấy một xu hướng hơi khác biệt về tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh. Nếu như
    giai đoạn 1993-1996, nồng độ acid uric trung bình là 6,77mg/dl ở nam và
    5,33mg/dl ở nữ thì giá trị này đã giảm xuống còn 6,59mg/dl ở nam và 4,97mg/dl
    ở nữ sau 12 năm. Tương ứng tỷ lệ tăng acid uric cũng giảm từ 25,3% xuống còn
    22% ở nam và từ 16,7% xuống còn 9,7% ở nữ. Điều này được giải thích do sự
    thay đổi chế độ ăn giảm tiêu thụ nội tạng, măng và sử dụng nước ngọt [68]. Tuy
    nhiên, tỷ lệ mắc bệnh gút lại tăng nên cần thiết phải có những nghiên cứu sâu
    hơn trong mối quan hệ với các bệnh mạn tính không lây khác.
    Nghiên cứu về tình trạng tăng acid uric huyết thanh ở các nước đang phát
    triển, tác giả Conen cho biết tỷ lệ tăng acid uric của người gốc Phi ở Seychelles
    6
    cũng chiếm tỷ lệ khá cao là 35,2% ở nam và 8,7% ở nữ 25-64 tuổi [69]. Đánh
    giá tỷ lệ tăng acid uric ở các nước đang phát triển khu vực Đông Nam Á cũng
    cho kết quả tương tự [114],[129], [135].
    1.2.2. Nghiên cứu về tăng acid uric huyết thanh ở Việt Nam
    Trong hơn một thập kỷ qua, nền kinh tế của Việt Nam nói chung đã có
    những bước phát triển nhanh chóng. Kèm theo đó, chế độ ăn và cơ cấu bệnh tật
    cũng dần thay đổi theo. Các bệnh mạn tính không lây nhiễm bắt đầu gia tăng
    trong những năm gần đây. Nhiều tác giả đã nghiên cứu về tỷ lệ mắc hội chứng
    chuyển hóa, thừa cân béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu tại cộng đồng
    và trong bệnh viện. Nhưng các nghiên cứu về rối loạn chuyển hoá acid uric cùng
    các biến chứng của bệnh mới chỉ được thực hiện trong bệnh viện hoặc trên các
    nhóm đối tượng quản lý sức khỏe là chủ yếu [7],[8],[15],[29].
    Thực trạng tăng acid uric huyết thanh ở Việt Nam trong những năm gần
    đây đã bắt đầu thu hút nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cho thấy rằng đây cũng
    là một vấn đề thời sự có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Điều tra của Lê Thanh Vân
    năm 1999 ở các đối tượng cán bộ quân đội, tuổi trên 40 cho thấy tỷ lệ tăng acid
    uric huyết thanh là 17,96%. Nhưng đến năm 2001 tỷ lệ này đã chiếm 22,4% [40].
    Tác giả Doãn Thị Tường Vi nghiên cứu tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh ở cán bộ
    viên chức Hà Nội và các tỉnh lân cận đến khám sức khỏe tại bệnh viện 19/8, kết
    quả cho thấy nhóm nam giới 30 -60 tuổi có tỷ lệ tăng acid uric là 6,2%, nữ là
    2,5%, tỷ lệ mắc chung là 4,9% [42]. Các yếu tố liên quan đến tình trạng tăng acid
    uric huyết thanh trong nghiên cứu này đã được xác định là tần xuất tiêu thụ thực
    phẩm giàu đạm và rượu bia nhiều, cân nặng và BMI cao. Những người tăng acid
    uric huyết thanh có nguy cơ bị tăng huyết áp, cholesterol, triglycerid huyết thanh
    cao hơn so với người bình thường.
    Phan Văn Hợp nghiên cứu trên đối tượng người cao tuổi tại 2 xã thuộc
    huyện Vụ Bản Nam Định năm 2011 cho thấy, tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh là
    9,5%, trong đó nam giới chiếm 16,3%, nữ giới chiếm 5,5%. Tỷ lệ tăng acid uric
    huyết thanh là 10,1% ở nhóm 60-90 tuổi; 9,7% ở 70-79 tuổi và 8,1% ở trên 80
    7
    tuổi [21]. Tác giả Bùi Đức Thắng theo dõi trên 151 đối tượng là người cao tuổi
    được quản lý sức khỏe tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội cho biết tỷ lệ tăng acid
    uric là 33,8% và có xu thế tăng dần theo tuổi, tỷ lệ mắc giữa 2 giới không có sự
    khác biệt đáng kể [33]. Nghiên cứu của Lê Văn Đoàn trên các đối tượng sỹ quan
    quân đội tuổi trung niên tại quân khu 9 cho thấy tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh
    trong nhóm này là 26,2%, tỷ lệ mắc cũng có xu hướng tăng theo tuổi. Các yếu tố
    liên quan: tuổi, chế độ ăn giàu đạm, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, thừa cân,
    béo phì [11].
    1.3. Các yếu tố liên quan tới tăng acid uric huyết thanh
    1.3.1. Liên quan đến đặc điểm nhân khẩu học
    Tuổi
    Trong điều kiện sinh lý bình thường, nồng độ acid uric huyết thanh đã có
    xu hướng tăng dần theo tuổi, tăng khoảng 10% từ lứa tuổi 20 đến 60 tuổi. Nhiều
    nghiên cứu dịch tễ học trên thế giới cũng đã khẳng định nồng độ acid uric trong
    máu tăng dần theo tuổi [60],[68],[100]. Và càng ngày nồng độ acid uric trung
    bình cao và tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh càng có xu hướng trẻ hóa. Người ta
    đã ghi nhận các trường hợp tăng acid uric huyết thanh ở nhóm thiếu niên
    [60],[124]. Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ acid uric huyết thanh và
    huyết áp trên 6.000 thiếu niên Mỹ độ tuổi 12 đến 17, tác giả Loeffler cho thấy
    nồng độ acid uric trung bình trong quần thể này là 5mg/dl ở nhóm bình thường
    và 5,6mg/dl ở nhóm tăng huyết áp và có tới 34% số đối tượng có nồng độ acid
    uric từ 5,5mg/dl trở lên [101]. Đây cũng là một thực tế đáng báo động cho thấy
    tăng acid uric huyết thanh xuất hiện cũng bắt đầu xuất hiện cả ở lứa tuổi vị thành
    niên vì bình thường nồng độ acid uric huyết thanh ở trẻ em là 2- 5,5 mg/dl.
    Chiou nghiên cứu trên 6.000 đối tượng tuổi từ 26 đến 75 tuổi tại Đài Loan
    trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2005 đã cho thấy có sự khác biệt rõ ràng về
    tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh giữa các nhóm tuổi khác nhau ở nữ giới nhưng
    không thấy sự khác biệt này ở nam giới [61]. Một nghiên cứu khác tại Đài Loan
    8
    trên nhóm đối tượng người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên, các tác giả cho biết nồng
    độ acid uric huyết thanh trung bình ở nam giới là 437,6 µmol/l và ở nữ giới là
    376 µmol/l. Tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh khá phổ biến ở đối tượng này, tỷ lệ
    mắc ở nam giới là 57,3%, ở nữ giới là 40,9% và có xu hướng ổn định giữa các
    nhóm tuổi [94]. Tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ mắc chung trong cộng
    đồng là khoảng 20% ở nam và 10% ở nữ [68]. Trong khi đó nhờ các tiến bộ xã
    hội, sự sẵn có về thực phẩm và sự chăm sóc sức khỏe tốt, tuổi thọ trung bình con
    người ngày càng tăng cả ở những nước phát triển và đang phát triển, cơ cấu
    người cao tuổi trong tháp dân số ngày càng lớn. Do vậy, tỷ lệ tăng acid uric sẽ có
    xu hướng ngày càng tăng cao trong cộng đồng.
    Giới tính
    Bình thường nồng độ acid uric huyết thanh ở nữ bao giờ cũng thấp hơn so
    với nam giới cùng độ tuổi. Ngưỡng đánh giá mức độ tăng acid uric trong máu ở
    nữ là trên 360 µmol/l trong khi ngưỡng này ở nam giới là trên 420 µmol/l. Một
    điều tra trên cơ sở dữ liệu của Chương trình điều tra dinh dưỡng và sức khỏe
    quốc gia của Mỹ lần thứ 3 cho biết nồng độ acid uric huyết thanh có xu hướng
    tăng dần theo tuổi từ 5,21 mg / dL ở những người trong độ tuổi 20-29 đến 5,72
    mg / dL ở những người độ tuổi từ 80 tuổi trở lên. Đặc biệt xu hướng này thể hiện
    rõ rệt ở nhóm nữ giới trên 60 tuổi so với nhóm dưới 60 [121]. Sau đó, nghiên cứu
    của Zhu cũng tại Mỹ điều tra trên đối tượng người trưởng thành lặp lại sau 2 thập
    kỷ đã cho biết nồng độ acid uric huyết thanh trung bình trong quần thể là
    6,14mg/dl ở nam giới và 4,87mg/dl ở nữ giới. Tuy vậy, không có sự khác biệt
    nhiều về tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh giữa nam và nữ (tỷ lệ hiện mắc là 21,2
    và 21,6%) [153].
    Trước kia, người ta cho rằng tăng acid uric huyết thanh và bệnh gút là
    bệnh của nam giới với 97% số bệnh nhân gút là nam. Nhưng hiện tại, một số
    nghiên cứu mở rộng đã cho thấy nếu như nguy cơ tăng acid uric huyết thanh và
    bệnh gút bắt đầu xuất hiện ở nam giới lứa tuổi 30 thì nguy cơ này xuất hiện ở nữ
    lứa tuổi 50 (muộn hơn 20 năm), tương ứng với thời kỳ mãn kinh của phụ nữ
    9
    [108]. Nếu như trước tuổi 65 tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh của nam cao gấp 4
    lần so với nữ thì sau tuổi 65 khoảng cách này thu hẹp lại dần. Một nghiên cứu tại
    Đài Loan cho biết ở lứa tuổi trẻ và trung niên, tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh có
    sự khác biệt rõ ràng giữa nam và nữ nhưng đến tuổi trên 65 thì cả 2 giới có tỷ lệ
    mắc tương đương nhau [61].
    Nghiên cứu tại Việt Nam trên nhóm đối tượng quản lý sức khỏe tác giả
    Bùi Đức Thắng cho biết nồng độ acid uric huyết thanh trung bình của nhóm
    nghiên cứu là 382 µmol/l, trong đó Giá trị trung bình ở nam là 387,5 µmol/l cao
    hơn so với nữ là 330,2 µmol/l. Tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh ở người cao tuổi
    trong nghiên cứu này là 33,8%, nam gặp nhiều hơn so với nữ nhưng giữa 2 giới
    không có sự khác biệt đáng kể [33]. Tác giả Phan Văn Hợp nghiên cứu trên đối
    tượng người cao tuổi tại cộng đồng dân cư 2 xã thuộc tỉnh Nam Định lại cho thấy
    tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh ở nam giới cao tuổi gấp 3 lần so với nữ. Sự khác
    biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,01 [21].
    Chủng tộc
    Một số nghiên cứu dịch tễ học chứng tỏ có sự khác biệt nồng độ acid uric
    giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Nồng độ này đặc biệt cao trong quần thể dân
    cư là thổ dân Maori ở New Zealand, người Úc bản địa hoặc người Mỹ gốc Phi
    [100],[108],[145]. Nghiên cứu trên nhóm đối tượng đa sắc tộc tại Mỹ thông qua
    dữ liệu của Chương trình điều tra dinh dưỡng và sức khỏe quốc gia của Mỹ lần
    thứ 3 cho biết Người Mỹ gốc Phi có tỷ lệ tăng acid uric huyết thanh cao nhất
    (22,5%), tiếp theo là người da trắng (18,0%) và nhóm những chủng tộc khác
    (16,3%) [121]. Rathmann nghiên cứu sự khác biệt nồng độ acid uric huyết thanh
    giữa nhóm thanh niên da trắng với da đen ở lứa tuổi 17-35, kết quả cho thấy nồng
    độ acid uric tăng cao nhất ở nhóm nam giới da đen sau đó đến nhóm nam giới da
    trắng rồi đến nhóm nữ da đen, cuối cùng là nhóm nữ da trắng [120]. Nghiên cứu
    tại Đài Loan cũng cho biết người bản xứ có nguy cơ tăng acid uric huyết thanh
    cao hơn so với các nhóm chủng tộc khác một cách có ý nghĩa thống kê. Nguyên
    10
    nhân của sự khác biệt này được cho là có liên quan đến cấu trúc di truyền và biến thể
    của các gen [138]. Như vậy, nồng độ acid uric huyết thanh có sự khác nhau đáng
    kể giữa các chủng tộc hay sắc tộc. Người Mỹ gốc Phi có nồng độ acid uric trong
    huyết thanh cao hơn so với người Mỹ da trắng. Điều này được giải thích có thể
    liên quan đến tỷ lệ tăng huyết áp cao ở người Mỹ gốc Phi. Ngoài ra, nồng độ acid
    uric huyết thanh dường như cao hơn ở những người thổ dân, như quan sát thấy
    trong nhóm người Maori ở Newzealand hay thổ dân Đài Loan cho thấy ảnh
    hưởng yếu tố di truyền đến nồng độ acid uric huyết thanh. Có thể yếu tố chủng
    tộc gây tăng acid uric huyết thanh có liên quan đến một số gen quy định quá trình
    chuyển hóa, thải trừ và tái hấp thu acid uric huyết thanh.
    1.3.2. Yếu tố di truyền và đột biến gen
    Với sự tiến bộ vượt bậc ở lĩnh vực công nghệ sinh học trong thời gian qua,
    những hiểu biết về cơ chế vận chuyển urat đã đang làm sáng tỏ thêm các nguyên
    nhân gây tăng acid uric huyết thanh có liên quan đến di truyền.Nhiều nghiên cứu
    về dịch tễ học di truyền trong thời gian gần đây đã xác định rõ vai trò của một số
    gen và biến thể liên quan đến tình trạng tăng acid uric huyết thanh. Một số giả
    thuyết nghiên cứu trước đây đã cho rằng nồng độ acid uric tăng ở con người có
    liên quan đến sự đột biến gen khoảng 15 triệu năm trước. Các tác giả đã giải
    thích sự đột biến này bằng giả thuyết “gen tiết kiệm” khi cơ thể con người phản
    ứng với tình trạng tình trạng thiếu lương thực và sự ấm lên của trái đất lúc đó. Sự
    đột biến này đã làm mất chức năng của enzym uricase nên nồng độ acid uric của
    con người cao hơn các loài linh trưởng [53].
    Sự đột biến của các gen quy định quá trình chuyển hóa purin trong cơ thể
    người sẽ làm rối loạn việc sản xuất các enzym tham gia vào quá trình chuyển hóa
    làm tăng acid uric huyết thanh, điển hình là một số bệnh và hội chứng sau:
    - Bệnh Lesch-Nyhan là một bệnh di truyền hiếm gặp gây tăng acid uric
    huyết thanh và bệnh gút do sự khiếm khuyết gen trên nhiễm sắc thể X. Bất
    thường gen này gây ra rối loạn hoàn toàn hay một phần hoạt động của enzyme
    11
    hypoxanthin-guanin-phosphoriposyl-transferase (HGPT). Bình thường enzyme
    này có tác dụng trong việc tái sử dụng các phosphoribosyl-pyrophosphate
    (PRPP) để tạo thành các nucleotid để không chuyển hypoxathin và guanin thành
    acid uric. Sự dư thừa PRPP dẫn đến hoạt hoá amido-phosphoriposyl-transferase.
    Sự hoạt động quá mức của enzyme này thường kèm theo sự tăng đột ngột quá
    trình tổng hợp purin nội sinh. Đối với các bệnh nhân nam dị hợp tử thường xuất
    hiện các triệu chứng tăng acit uric từ khi còn là trẻ em, với biểu hiện tăng acid
    uric huyết thanh và niệu, chậm phát triển tinh thần thường hay bị điếc do nguyên
    nhân thần kinh thính giác. Bệnh chỉ gặp ở bé trai kèm theo các triệu chứng về
    toàn thân, thần kinh và tâm thần như: chậm phát triển tâm thần-vận động, tăng
    trương lực, rối loạn vận động kiểu múa vờn, bệnh lý về thận, bệnh lý tại khớp.
    Đây còn được gọi là bệnh gút bẩm sinh và bệnh nhân thường tử vong sớm do các
    biến chứng ở thận, tim mạch [124].
    - Bệnh thiếu hụt enzyme glucose-6-phosphatase hay còn gọi là bệnh
    Gipke (bệnh lý dự trữ glycogen type I). Bệnh nhân gây ra rối loạn trong quá trình
    giải phóng glucose từ glucose-6-phosphatase vào gan. Xuất hiện xu hướng giảm
    Kali máu, tạo ra một lượng purin thừa. Quá trình tổng hợp acid uric được tăng
    lên từ nucleotid purin và do giảm bài tiết ở thận (do tăng acid lactic và toan
    ceton) [123].
    - Sự thiếu hụt enzyme frutose-l-phosphat-aldolase cũng được xem như là
    một trong những nguyên nhân hay gặp của tăng acid uric huyết thanh. Từ sự rối
    loạn dung nạp fructose do sự thiếu hụt di truyền fructose-l-phosphat-aldolase sẽ
    dẫn đến tích tụ fructose-l-phosphat-purine từ thành phần của ATP đã được huy
    động tăng cường chuyển thành urát dẫn đến tăng acid uric huyết thanh. Trong thí
    nghiệm truyền fructose nhanh ở bệnh nhân có rối loạn dung nạp fructose,
    fructose phosphoryl hoá ở gan, quá trình này sử dụng nhiều ATP. Trong vòng vài
    ba phút sau khi truyền đã thấy nồng độ inosine, hypoxanthin, xanthin và acid uric
    trong máu và trong nước tiểu tăng lên.
     
Đang tải...