Thạc Sĩ Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Thạc Sỹ Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt

    MỞ ĐẦU

    1. Lí do chọn đề tài

    Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại,
    khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu
    (necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn
    sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể
    không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới
    đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau
    về thế giới.
    Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình
    giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai
    phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa
    biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa
    sự tình với thế giới khách quan hoặc thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của
    câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói
    nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái.
    Mặt khác vấn đề tình thái mà cụ thể là tình thái giảm nhẹ (TTGN) còn gắn liền với tính lịch
    sự trong giao tiếp, gắn với ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Không thể chỉ xem xét ngôn
    ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Giao tiếp như thế nào
    để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa làm thế giao tiếp phải thể hiện nét văn hóa, lịch sự
    là một điều quan trọng. Nắm bắt về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt hệ thống các phương tiện
    biểu thị TTGN sẽ góp phần giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này.
    Về lĩnh vực tình thái trong tiếng Việt, từ những năm 40 với các tác giả Trần Trọng Kim,
    Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ trong “Grammaire Annamite”, tình thái đã được chú ý đến khi các tác
    giả đề cập đến “thái độ của người nói”. Sau này, những nghiên cứu có tính chất khai phá và đi
    sâu hơn về tình thái đã xuất hiện với các tác giả như Hoàng Phê [64], [65]; Nguyễn Đức Dân
    [11]; Cao Xuân Hạo [23], [24], [25]. Rồi đến những chuyên khảo về tình thái cũng liên tục xuất
    hiện từ Phạm Hùng Việt [92]; Nguyễn Văn Hiệp [28], [29], [30], [31]; Phạm Thị Ly [51];
    Nguyễn Thị Lương [48]; Nguyễn Thị Ngọc Hân [27] Các tác giả nghiên cứu nhiều phương
    diện của vấn đề tình thái như: nghĩa tình thái của từ; logic tình thái đến logic ngôn ngữ học; từ
    ngữ pháp chức năng đến ngữ dụng học và đặc trưng tình thái của từ, của câu; chuyên sâu hơn về
    đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt, về tiểu từ tình thái, vị từ tình thái Tuy nhiên, nghiên
    cứu về TTGN mà cụ thể hơn nghiên cứu chi tiết để hệ thống hóa các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt vẫn còn bỏ ngỏ cho dù thực tế việc sử dụng các phương tiện biểu thị
    TTGN rất phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt
    Những vấn đề đã trình bày ở trên đã khuyến khích chúng tôi chọn đề tài “Tình thái giảm nhẹ
    trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình.
    Về mặt lí luận: Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi nghiên cứu về
    TTGN và xây dựng được một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng
    Việt, chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề tình thái trong
    ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng.
    Về mặt thực tiễn: Chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng dụng cho việc
    giao tiếp và dạy tiếng. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những phương
    tiện tình thái trong đó có phương tiện TTGN. Việc dạy tiếng Việt cho người Việt cũng như cho
    người nước ngoài sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi chúng ta giúp họ nhận biết và sử dụng một
    hệ thống phương tiện biểu thị tình thái nói chung TTGN nói riêng của tiếng Việt. Bởi nó là một
    trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm
    bắt đúng ý định giao tiếp của người nói.

    2. Lịch sử vấn đề

    Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TTGN, các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn
    ngôn tiếng Việt nhưng qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tôi nhận thấy những
    công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên còn rất hạn chế, có thể nói chỉ có một bài viết
    của tác giả Nguyễn Xuân Thơm [79] là đề cập đến TTGN nhưng giới hạn trong diễn ngôn đàm
    phán thương mại quốc tế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ điểm qua một số công
    trình nghiên cứu có tính chất nổi bật về vấn đề tình thái trong tiếng Việt nói chung, trong đó có
    những nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề về phương tiện biểu thị tình thái.

    Về các tác giả nước ngoài: Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev,
    Bystrov khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ
    phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa như: tiểu từ có tính chất nghi vấn, tiểu từ nhấn
    mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái như là một từ loại của tiếng
    Việt hơn là một phương tiện biểu thị tình thái [theo 51; 34]. Một tác giả nước ngoài khác cũng
    quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt, đó là V.S. Panfilov (2003). Trong chương VIII của cuốn sách
    “Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt” [62] (cũng viết bằng tiếng Nga do Nguyễn Thủy Minh dịch), ông
    đã trình bày về bán hư từ, trong đó có đề cập ngắn gọn đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ
    pháp này bao gồm những từ như: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiên Những từ này được sử dụng với chức năng định ngữ của câu, thể hiện sự đánh giá đối với sự việc được nhắc tới
    trong câu, hoặc đối với chính phát ngôn như một hành động lời nói” [62; 277]. Như vậy, có thể
    thấy chưa có một tác giả nước ngoài nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng như những
    phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt.

    Về các tác giả trong nước: Có thể chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến tình thái
    trong tiếng Việt thành hai nhóm:
    (1) Các tác giả không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhưng trong quá trình xử lí các
    vấn đề khác họ đã có ít nhiều đụng chạm đến một bộ phận vấn đề tình thái, như: Nguyễn Kim
    Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê Cận – Phan Thiều (1983), Bùi Tất Tươm (1997), Đinh
    Văn Đức (2001), Diệp Quang Ban (2008), Nguyễn Thiện Giáp (2008).
    (2) Các tác giả trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái, họ nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều
    kiến giải sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến những tên
    tuổi như: Hoàng Phê, Hồ Lê, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Tuệ, Phạm Hùng Việt,
    Huỳnh Văn Thông, Nguyễn Thị Lương, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Lê Đông, Nguyễn
    Xuân Thơm, Phạm Thị Ly, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Ngô Thị Minh, Võ
    Đại Quang. Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về một số đóng góp của các tác giả nhóm 2 này.
    Có thể nói Hoàng Phê với bài viết “Phân tích ngữ nghĩa” (1975) [64], “Toán tử logic – tình
    thái” (1984) [65] và Hồ Lê (1979) với bài viết “Vấn đề logic ngữ nghĩa và tính thông tin trong
    lời nói” [44] đã gợi mở cho nhiều nghiên cứu về nghĩa tình thái xuất hiện sau này. Hoàng Phê
    (1984) đi sâu trong việc vận dụng logic của ngôn ngữ tự nhiên để phân tích ngữ nghĩa của một
    số từ thường dùng hoặc của những đơn vị mà ông gọi là “toán tử logic – tình thái” – phương tiện
    biểu thị tình thái. Ông cho rằng “nếu quan niệm toán tử trong ngôn ngữ là những đơn vị ngôn
    ngữ mà khi dùng tác động đến các đơn vị ngôn ngữ thuộc một cấp độ nào đó thì cho ta những
    đơn vị ngôn ngữ mới (thường là cùng cấp độ), thì có thể nói rằng có toán tử ở tất cả các cấp độ”
    [65; 5]. Như vậy có toán tử ở cấp độ ngữ âm như thanh điệu, cấp độ từ vựng, cấp độ cú
    pháp .“Về hình thức toán tử logic – tình thái có thể là một từ, một tổ hợp từ (có khi có hình thức
    câu) hoặc chỉ đơn giản là một ngữ điệu” [65; 7]. Cũng trong “Toán tử logic – tình thái”, ông
    phát biểu rằng “Con người sử dụng ngôn ngữ không chỉ nói về hiện thực, mà còn nói nhận thức,
    sự đánh giá, thái độ của mình, không những nói bằng hiển ngôn, mà còn dùng tiền giả định và
    nói bằng hàm ngôn. Tất cả những điều đó làm cho tương ứng với các kết tố mệnh đề, ngôn ngữ
    tự nhiên sử dụng một loạt những toán tử logic – tình thái có chức năng tạo ra những lời có yếu tố
    tình thái và có thể có cấu trúc ngữ nghĩa nhiều tầng (tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn)” [65;
    7]. Rõ ràng những công trình của Hoàng Phê nêu trên là những đóng góp quý báu cho việc nghiên cứu các phương tiện biểu thị tình thái nói chung, TTGN nói riêng. Sau này, Hồ Lê
    (1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” [45], còn xem trật tự từ như là một trong những phương tiện
    diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt. Việc đảo trật tự, thay đổi cấu trúc của câu có thể thể
    hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn.
    Năm 1985, Phan Mạnh Hùng có bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và
    ranh giới từ” [36]. Tác giả đã có những nhìn nhận sâu hơn về tiểu từ tình thái tiếng Việt trong
    khung nghiên cứu từ loại như vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả năng các tiểu từ kết
    hợp với nhau .
    Cũng đi vào lĩnh vực phân tích ngữ nghĩa của lời nhưng ở góc độ của logic tình thái, Nguyễn
    Đức Dân (1987) đã có những công trình có tính chất quan trọng về logic tình thái. Trong “Logic
    – Ngữ nghĩa – Cú Pháp” [11], ông cho rằng: “Logic tình thái là một công cụ hữu hiệu để miêu
    tả và nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Và các ngôn ngữ tự nhiên cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về
    tình thái logic” [11; 39]. Nguyễn Đức Dân đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề tình thái như sau:
    “Tình thái là một vấn đề rất rộng và còn rất mông lung mà các nhà logic học, các nhà kí hiệu học
    và các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Nhưng từ các cách tiếp cận khác nhau và các phương pháp
    khác nhau lại dẫn đến những kết quả gặp gỡ nhau” [11; 40]. Tác giả cũng nêu ra tính đa nghĩa
    của từ tình thái. Chỉ cần thay thế từ tình thái này bằng từ tình thái khác trong cùng một phát
    ngôn sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau về phát ngôn đó (ví dụ từ có thể và từ phải). Và tác
    giả còn cho rằng điều đó là do các tác tử tình thái thuộc về hai lớp tình thái khác nhau: tình thái
    đạo nghĩa và tình thái nhận thức [11; 41].
    Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái trong tiếng Việt” [87;
    729] và “Về khái niệm tình thái” [87; 734] in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập Ngôn ngữ học”
    (2001) cho ta một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái trong tương quan đối chiếu với khái
    niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ Châu Âu. Tác giả cũng đề cập đến sự thể hiện ý nghĩa
    tình thái trong tiếng Việt.
    Luận án phó tiến sĩ của Phạm Hùng Việt năm 1996, sau này được xuất bản thành sách có tựa
    đề “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại” (2003) [92], đã đề cập đến chức năng cơ bản của những
    đơn vị mà ông gọi là “trợ từ câu”, “trợ từ bộ phận” trong tiếng Việt hiện đại. Cũng trong cuốn
    sách này, khi trình bày về phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ học ông đã đề cập đến các
    phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Ông cho rằng: “Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa
    tình thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng” [92; 37]. Ông đã
    liệt kê một hệ thống các phương tiện như: ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm), từ vựng (động từ tình
    thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán ngữ tình thái), ngữ pháp (đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu .).
    Đặc biệt qua phân tích cách sử dụng của trợ từ tiếng Việt, tác giả đã cho rằng: “trợ từ tiếng Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành vi ngôn ngữ khác nhau gồm cả các hành vi ngôn
    ngữ chân thực và các hành vi ngôn ngữ gián tiếp” [92; 133]. Điều này chứng tỏ khả năng to lớn
    của trợ từ tiếng Việt trong việc tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của phát ngôn. Theo chúng
    tôi, các hành động ngôn từ (HĐNT) gián tiếp, cách biểu thị ý nghĩa hàm ẩn cũng có thể là
    phương tiện biểu thị ý nghĩa TTGN.
    Nghiên cứu chuyên sâu về vị từ tình thái là luận án tiến sĩ “Vị từ tình thái tiếng Việt” [80]
    của tác giả Huỳnh Văn Thông (1996). Sau này, tác giả còn có bài viết “Mấy nhận xét về vị từ
    tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt” (2000) [81] đã đề cập đến vấn đề tình thái mà cụ thể là
    vị từ tình thái ở nhiều mức độ và góc cạnh khác nhau.
    Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu chuyên sâu về “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi
    với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” [48] (gồm mười tiểu từ tình thái: à, ư,
    hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé). Luận án phó tiến sĩ này của tác giả đã “vận dụng lí
    thuyết hành vi ngôn ngữ vào việc nghiên cứu chuyên sâu mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để
    hỏi nhằm tìm ra các hành vi ngôn ngữ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị trong
    những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện, miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành vi đó” [48;
    2]. Cũng như công trình nêu trên của tác giả Phạm Hùng Việt, trong phần cơ sở lí luận của luận
    án, tác giả Nguyễn Thị Lương đã nêu ra những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái tương tự,
    bao gồm: phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tác giả xếp mười tiểu từ tình thái dứt câu
    dùng để hỏi nêu trên thuộc phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái chủ quan.
    Đi sâu vào việc miêu tả những phương tiện của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình
    thái, Cao Xuân Hạo (1998), trong công trình “Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
    nghĩa” [23], đã có những kiến giải và nhận xét hết sức sâu sắc về tiền giả định và hàm ý trong
    một số vị từ tình thái tiếng Việt. Sau này trong “Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng”
    (2006) [25] một lần nữa ông trở lại vấn đề tình thái qua việc phân tích rất chi tiết về đề tình thái -
    siêu đề và thuyết tình thái – thuyết giả. Ông xem chúng như những phương tiện đặc thù của tiếng
    Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái.
    Nguyễn Văn Hiệp (2001) nghiên cứu trọng tâm vào các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt.
    Trong “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình thái” [29], tác giả nghiên cứu về những
    vấn đề như: điều kiện tình thái cuối câu xuất hiện, khả năng kết hợp của các tiểu từ tình thái cuối
    câu tiếng Việt. Một đóng góp quan trọng của Nguyễn Văn Hiệp là đã miêu tả và phân loại các
    tiểu từ tình thái cuối câu một cách rõ ràng. Bài viết “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại
    các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt” [28] của ông đã góp phần làm nên cái nhìn toàn diện và
    sâu sắc hơn về lớp từ này. Và trong công trình chung Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003)
    “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học” [17], hai tác giả đã khái quát về khái niệm tình thái “góp phần làm rõ một số phương diện chính yếu của phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ cũng
    như những vấn đề có liên quan” [17; 63]. Không những thế, năm 2007, trong “Một số phạm trù
    tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ” [30], Nguyễn Văn Hiệp một lần nữa đã “nêu ra một bức tranh
    đa góc cạnh về tình thái” [30; 27] khi đi vào phân tích một cách chi tiết và nêu ra một số đối lập
    chủ yếu của tình thái trong ngôn ngữ. Đến năm 2008, trong công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân
    tích cú pháp” [31], công trình mà trong đó Nguyễn Văn Hiệp đã tổng hợp lại nhiều vấn đề về
    tình thái, tác giả nhận định rõ vai trò của tình thái rằng: “Nếu không quan tâm đến các bình diện
    của tình thái, thì chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ, với tư cách là công cụ
    con người dùng để phản ảnh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội. Không có
    tình thái, nội dung được thể hiện trong câu nói chỉ là những mảnh nguyên liệu rời rạc.” [31; 74]
    Có thể nói bài viết đề cập trực tiếp nhất đến TTGN là bài viết “Các phương thức biểu thị tình
    thái giảm nhẹ trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế” [79] của Nguyễn Xuân Thơm
    (2002). Tác giả tập trung nghiên cứu về các phương thức biểu thị thái độ đối với người nghe
    trong diễn ngôn đàm phán tiếng Anh và tiếng Việt và đã đưa ra một số phương thức sau: sử dụng
    yếu tố đánh dấu lịch sự (please – xin), sử dụng nguồn lực ý nghĩa tích cực của từ, sử dụng
    nguồn lực các lượng từ hạn định, sử dụng nguồn lực từ tình thái. Bài viết này khá thú vị tuy
    nhiên nó chỉ giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại.
    Tác giả Phạm Thị Ly (2003) nghiên cứu theo hướng đối chiếu về phương tiện diễn đạt ý
    nghĩa tình thái, đó là “Đối chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt
    và tiếng Anh” [51]. Khi lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ nguồn, tác giả đã đi vào phân tích, tìm hiểu
    thức của vị từ như một phương tiện đặc thù diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Anh để đối chiếu
    với những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tương ứng của tiếng Việt. Và khi lấy tiếng Việt làm
    ngôn ngữ nguồn, tác giả chọn tiểu từ tình thái như một phương tiện quan trọng diễn đạt ý nghĩa
    tình thái của tiếng Việt mà tiếng Anh không có. Như vậy trọng tâm của luận án là đi vào nghiên
    cứu đối chiếu thức vị từ và tiểu từ tình thái mà thôi. Cũng trong luận án này, tác giả cho rằng
    “Tiếng Việt còn có một phương tiện hết sức đặc thù để diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là những
    yếu tố tình thái được xử lý như một phần đề hoặc như một phần thuyết của câu” [51; 77]. Đây
    chính là cái mà Cao Xuân Hạo gọi là siêu đề và thuyết giả như đã nêu trên.
    Công trình chung “Thành phần câu tiếng Việt” [83] của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn
    Văn Hiệp (2004) đã dành hẳn một chương để trình bày về một thành phần phụ của câu: tình thái
    ngữ. Hai tác giả không chỉ trình bày khái niệm về tình thái ngữ mà còn phân biệt tình thái ngữ
    với các thành tố khác trong câu, phân loại tình thái thái ngữ và nêu ra điều kiện sử dụng của
    chúng trong câu. Cũng nghiên cứu theo hướng đối chiếu như tác giả Phạm Thị Ly, Nguyễn Thị Ngọc Hân
    (2005) đã có công trình nghiên cứu “Tiểu từ tình thái cuối câu trong hội thoại tiếng Việt (so
    sánh với tiếng Nhật) và việc giảng dạy nó cho người Nhật” [27]. Hai công trình của hai tác giả
    này có giá trị ứng dụng cao vào việc dạy tiếng cho người nước ngoài. Luận án đã khảo sát con
    đường chuyển nghĩa của các tiểu từ tình thái cuối câu, sự gắn kết chặt chẽ của chúng với phát
    ngôn, tình trạng niềm tin của người nói được thể hiện qua sự có mặt của chúng trong phát ngôn.
    Tác giả Ngô Thị Minh (2005) với bài viết “Bàn thêm một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa
    tình thái trong ngôn ngữ hội thoại” [54], đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, đã cho rằng:
    “Ngôn ngữ hội thoại mang nhiều yếu tố tình thái và phương tiện biểu hiện loại ý nghĩa này cũng
    khá đa dạng” [54;1]. Ngoài các phương tiện về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp như đã nêu ở trên, tác
    giả đã bổ sung thêm ba phương tiện: sử dụng tiếng chửi, lời nói tục; sử dụng các thành ngữ quán
    ngữ; sử dụng kiểu nói lửng.
    Ngoài ra, còn có tác giả Võ Đại Quang (2008) bàn về “Tình thái trong câu – phát ngôn: một
    số vấn đề lí luận cơ bản” [72]. Tác giả giúp người đọc nhận thấy “mối liên hệ giữa tình thái và
    các thành tố ngữ nghĩa khác trong phát ngôn và về những vấn đề, những yếu tố cần yếu trong
    nghiên cứu về tình thái của đơn vị “câu” (sentence) với tư cách là những phát ngôn (utterances)
    trong giao tiếp liên nhân” [72; 1]. Trong phần viết về các phương thức chuyển tải nghĩa tình thái
    trong ngôn ngữ, tác giả cho rằng tình thái có thể được chuyển tải bằng phương tiện ngôn ngữ
    thông qua con đường từ vựng hóa, ngữ pháp hóa và ngôn điệu hóa. Như vậy, quan điểm của tác
    giả về các phương tiện biểu thị tình thái cũng giống như các tác giả khác đã nêu ở trên tuy nhiên
    tác giả đã khẳng định rõ vai trò của các phương tiện biểu thị tình thái bằng lời nhận xét: “Việc
    học và sử dụng chuẩn xác các phương tiện tình thái sẽ giúp ích rất nhiều trong việc duy trì và cải
    thiện quan hệ liên nhân trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể bằng ngôn từ.” [72; 8]
    Có thể nói việc nghiên cứu về tình thái, vấn đề nghĩa tình thái trong tiếng Việt đã thu hút
    được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Từ bước đầu tiên chỉ là những quan sát để phân
    tích một số nét thái độ của người nói đối với hiện thực quan sát được, các nhà Việt ngữ học đã
    không ngừng tiến vào những lĩnh vực mới mẻ như logic học, logic tình thái, ngữ dụng học hoặc
    theo quan điểm của ngữ pháp chức năng để phân tích, đánh giá về những nội dung tình thái thể
    hiện trong phát ngôn tiếng Việt. Điều này cho chúng ta thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
    về hoạt động và tầm tác động của lời nói trong giao tiếp.
    Những công trình nghiên cứu mà chúng tôi chọn lọc và nêu ra ở trên sẽ là những kiến thức
    căn bản và hữu ích giúp chúng tôi xử lí đề tài của mình. Mặt khác, nó cũng cho chúng tôi nhận
    thấy vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về TTGN, về các phương tiện biểu thị TTGN mà chúng tôi
    đã chọn thực sự là một vấn đề mới, hấp dẫn và đáng được quan tâm.

    3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

    Mục đích của luận văn là nghiên cứu về TTGN mà trọng tâm là khảo sát và xác lập một hệ
    thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. Để đạt được mục đích này,
    chúng tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

    3.1 Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu Việt ngữ học, luận văn đưa ra khái niệm về
    TTGN, nội dung của TTGN, vai trò của tình thái – TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt.
    3.2 Thu thập và khảo sát ngữ liệu, lọc ra các dẫn chứng có biểu thị TTGN.
    3.3 Từ nguồn ngữ liệu, luận văn tổng hợp và lập ra một danh sách các phương tiện biểu thị
    TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt, xác định tiêu chí nhận diện (nếu có) cho mỗi phương tiện và
    xếp các phương tiện vào từng nhóm.
    3.4 Miêu tả, phân tích những đặc điểm cơ bản của các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn
    ngôn tiếng Việt.

    4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

    4.1 Phương pháp nghiên cứu

    Để thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau
    đây:
    4.1.1 Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Dựa trên nền tảng lí thuyết tiếp
    thu được từ các nhà ngôn ngữ học đi trước, phần cơ sở lí luận mà chúng tôi trình bày trong
    chương 1 đều là những tổng kết hoặc những điều được học hỏi từ những công trình nghiên cứu
    có liên quan. Nắm vững phần lí thuyết, chúng tôi lấy đó làm cơ sở để tiến hành công việc khảo
    sát, phân tích và xác lập hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt.

    4.1.2 Phương pháp thống kê: Khi làm việc với một nguồn ngữ liệu từ ca dao đến các tác
    phẩm truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam
    Cao, Nguyễn Thị Thu Huệ , chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để định lượng ngữ liệu
    và từ đó xác lập từng phương tiện biểu thị TTGN cụ thể. Tư liệu chọn lọc không chỉ được chúng
    tôi sử dụng làm cơ sở cho việc đánh giá, xác lập và phân loại nêu trên mà còn được sử dụng vào
    việc nêu ra ví dụ trong quá trình miêu tả, phân tích từng phương tiện.

    4.1.3 Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu khi trình bày về
    từng phương tiện biểu thị TTGN đã được xác lập ở trên. Các nhận định đưa ra chủ yếu dựa vào
    kết quả phân tích, miêu tả ngữ liệu.

    4.1.4 Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng: Với tư cách là một quá trình giao
    tiếp hay sự kiện giao tiếp, diễn ngôn bao hàm cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh tình
    huống, yếu tố dụng học và các tác động của các chiến lược văn hóa ở người sử dụng ngôn ngữ.
    Do đó khi nghiên cứu TTGN trong diễn ngôn, chúng tôi luôn ý thức về sự chi phối các yếu tố
    này, đặc biệt là yếu tố ngữ cảnh tình huống. Thông qua phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ
    dụng, việc xác định về TTGN cũng như việc miêu tả, phân tích các cứ liệu luôn được chúng tôi
    xem xét một cách toàn diện, đặt trong một ngữ cảnh cụ thể.

    4.2 Nguồn ngữ liệu

    Để tạo sự phong phú về ngữ liệu cũng như để có được độ tin cậy trong quá trình thống kê,
    phân tích và nhận xét, chúng tôi mở rộng nguồn ngữ liệu trích dẫn từ ca dao đến những tác phẩm
    của những nhà văn nổi tiếng trước đây như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam
    Cao cho đến những sáng tác được nhiều người biết đến của những nhà văn mới sau này trong
    các tuyển tập văn mới. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý đến nguồn ngữ liệu trong giao tiếp
    hàng ngày.



    5. Bố cục của luận văn

    Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được phân thành hai chương:
    Chương 1: Luận văn trình bày những cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan đến đề tài như: về diễn
    ngôn; về tính tình thái và TTGN trong ngôn ngữ; một số vấn đề khác về TTGN trong ngôn ngữ,
    trong đó có đề cập về lịch sự và lịch sự ngôn ngữ, vai trò của TTGN trong diễn ngôn, trong giao
    tiếp.
    Chương 2: Qua khảo sát, luận văn xác lập, phân loại và miêu tả các phương tiện biểu thị TTGN
    trong diễn ngôn tiếng Việt.


     
Đang tải...