Tiểu Luận Tình huống quá trình triển khai thực hiện dự án FDI: dự án liên doanh Vũng Tàu – Paradise

Thảo luận trong 'Đầu Tư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tên đề tài:
    TÌNH HUỐNG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN FDI: DỰ ÁN LIÊN DOANH VŨNG TÀU - PARADISE
    LỜI NÓI ĐẦU
    1.1 Giới thiệu về dự án
    ` Dự án khu du lịch Vũng Tàu – Paradise tại bãi Thùy Vân, thành phố Vũng Tàu là một trong 5 dự án liên doanh đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Bà Rịa – Vũng Tàu được Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư – KHĐT) cấp giấy chứng nhận đầu tư năm 1991 với thời hạn cấp phép là 25 năm, là dự án đầu tư của liên doanh giữa Công ty Du lịch quốc tế Vũng Tàu (Vungtau intourco) và Paradise Development and Investment (Đài loan), gọi tắt là liên doanh Vũng Tàu – Paradise.


    1.2 Mục tiêu của dự án
    Xây dựng khu văn hóa - thể thao và du lịch tại Bãi Sau thành phố Vũng Tàu.
    Dự án gồm khách sạn 3 sao 1.500 phòng và công trình dịch vụ đi kèm; khu thể thao dưới nước, bể bơi luớt ván, thuyền buồm, nhảy dù nhào lặn, câu cá; công viên giải trí gồm làng dân tộc thiểu số Việt Nam, Trung tâm ca múa nhạc dân tộc Việt Nam, vườn chơi trẻ em, múa nước; một sân golf 27 lỗ đạt tiêu chuẩn quốc tế; công viên nước
    Tổng đầu tư dự án lên tới hơn 97 triệu USD, trong đó vốn pháp định gần 62 triệu USD. Phía VN góp gần 15,5 triệu USD bằng giá trị quyền sử dụng 220 ha đất ven biển trong 25 năm, phía nước ngoài đóng góp số còn lại bằng tiền mặt, thiết bị và vật tư hàng hóa.


    1.3 Quá trình triển khai xây dựng dự án
    Cuối năm 1995 tức sau 15 năm đầu tư, mới chỉ có một phần nhỏ của một số hạng mục công trình được thực hiện. Cụ thể, khu khách sạn 500 phòng chỉ xong phần .móng; Nhà khách 38 phòng còn đang ở dạng xây thô; Khu công viên giải trí gồm 6 công trình thì cũng chỉ mới xây được một khu trò chơi và khu cắm trại.
    Các phần còn lại chưa thực hiện hoặc đang dở dang . Riêng khu thể thao dưới nước thành Câu lạc bộ Marina cho thuê phao dù tắm biển.
    Tháng 8/2006, dự án vẫn rơi vào bế tắc, việc triển khai dự án không được tiến hành như giấy chứng nhận đầu tư đã quy định. Để dự án này có thể tiếp tục được đầu tư hoàn thiện, vấn đề cơ bản nhất là chủ đầu tư phải có nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, đối tác Đài Loan không đủ khả năng tài chính. Theo đại diện phía nước ngoài, khó khăn lớn nhất khi tiếp tục huy động vốn đầu tư là thời hạn hoạt động còn lại quá ngắn (10 năm), do đó phía nước ngoài đề nghị xin tăng thời hạn giấy phép từ 25 năm lên 50 năm.
    Sau khi nghiên cứu ý kiến của các bên liên doanh và trên cơ sở kết quả kiểm tra tại doanh nghiệp, Đoàn kiểm tra của UBND tỉnh đã đề nghị trong vòng 12 tháng kể từ ngày có kết luận của Đoàn kiểm tra (8/2006), nếu Liên doanh Vũng Tàu - Paradise đệ trình được phương án khả thi chuyển nhượng vốn cho một chủ đầu tư mới hoặc bên nước ngoài tìm kiếm được các nhà đầu tư mới đủ năng lực tài chính tham gia góp vốn đầu tư để xây dựng các hạng mục chính, thì Đoàn kiểm tra sẽ đề nghị Bộ KH&ĐT xem xét quyết định đồng thời với việc gia hạn hoạt động từ 25 năm lên 50 năm cho doanh nghiệp. Nếu sau thời gian này (tháng 8/2007), Liên doanh Vũng Tàu - Paradise không thực hiện được các điểm nêu trên, Đoàn kiểm tra đề nghị cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư xem xét phương án chấm dứt hoạt động trước thời hạn, hoặc thu hồi toàn bộ diện tích đất tương xứng chưa sử dụng.
    Tháng 1/2008, tại buổi làm việc với Sở Kế hoạch và Đầu tư về việc triển khai dự án, ông Long Hasiang Wu - Chủ tịch HĐQT Công ty liên doanh Vũng Tàu - Paradise cho biết, vẫn đang tìm kiếm đối tác có đủ năng lực tài chính để xây dựng các hạng mục còn lại. Như vậy, quá thời hạn quy định mà liên doanh vẫn chưa tìm ra được biện pháp để tiếp tục dự án như đã cam kết.


    1.4 Quá trình góp vốn và giám định tài sản
    Từ năm 1991 - 1999, phía nước ngoài góp hơn 25,4 triệu USD bằng tiền mặt và thiết bị, vật tư hàng hóa (báo cáo của liên doanh). Tuy nhiên, số tiền này Hội đồng quản trị (HĐQT) của liên doanh không công nhận vì thiếu chứng từ hợp lệ.
    Tháng 1/2002, Bộ KHĐT đã thành lập đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra Liên doanh Vũng Tàu - Paradise. Bộ KHĐT đã ra công văn yêu cầu liên doanh thực hiện các bước hậu kiểm, nhằm xác định rõ giá trị góp vốn của các bên tham gia.
    Tháng 8/2002, Vũng Tàu - Paradise đã ký hợp đồng kinh tế với Cty cổ phần giám định Ngân Hà (Micontrol) để giám định tài sản. Kết quả cho thấy tổng chi phí xây dựng sân golf được xác định là hơn 7.676.061USD, nhưng phía liên doanh không đồng ý.
     Xem xét, đánh giá kỹ càng dự án từ khi thẩm tra, nhằm không chỉ thấy được tính khả thi của dự án trên phương diện tài chính mà còn đảm bảo dự án được triển khai và hoạt động theo đúng cam kết của nhà đầu tư.
     Cần giám sát chặt chẽ và thường xuyên công tác triển khai thực hiện dự án đầu tư, kịp thời xử lý những vi phạm của các dự án. Trong trường hợp dự án lớn và có vai trò quan trọng trong sự bối cảnh chung của xã hội có thể linh hoạt xem xét, nhưng không quá nhân nhượng.
     Xử lý linh hoạt, nỗ lực giúp đỡ các dự án triển khai thuận lợi thông qua các chính sách điều chỉnh dự án phù hợp như thay đổi về quy mô, hình thức, thời gian hoạt động,
    * Trên góc độ chủ dự án đầu tư:
     Cần lựa chọn đối tác kỹ càng ngay từ đầu, cam kết chặt chẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên, đảm bảo dự án được triển khai đúng kế hoạch, vận hành hiệu quả.
     Có phương án quản lý chặt chẽ và hiệu quả tất cả các khâu của dự án. Kịp thời nhận ra những sai sót dự án gặp phải, tham chiếu với các chính sách luật pháp để tìm hướng giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.
     Linh hoạt trong các khâu thực hiện dự án, tận dụng những ưu đãi trong đầu tư thuộc lĩnh vực của dự án và áp dựng triệt để những thuận lợi từ các chính sách pháp luật.
     
Đang tải...