Luận Văn Tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ p

Thảo luận trong 'Tài Chính Thuế' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word dài 89 trang


    Chương I
    CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
    VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC
    DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI


    1.1.Khái niệm về vốn lưu động và vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần
    thương mại
    1.1.1.Khái niệm về vốn lưu động
    a.Khái niệm về vốn lưu động
    Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn
    phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không
    giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ
    thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao
    phí mất đi trong quá trình sản xuất, đối tượng lao động chỉ có thể tham gia một chu kỳ
    sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau phải dùng một đối tượng lao động khác. Cũng do
    đặc điểm trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một
    lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
    Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận: một
    bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục
    (nguyên nhiên vật liệu .); một bộ phận khác là những vật tư đang trong quá trình chế
    biến (sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình
    thái vật chất gọi là tài sản lưu động. Để phục vụ cho quá trình sản xuất còn cần phải dự
    trữ một số công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế, vật đóng gói cũng được coi là tài sản
    lưu động.
    Mặt khác quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu
    thông. Trong quá trình lưu thông, còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc,
    đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán . do đó trong khâu lưu thông hình thành
    một số khoản hàng hoá và tiền tệ, vốn trong thanh toán .
    Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong
    quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình
    tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
    Như vậy, doanh nghiệp nào cũng cần phải cố một số vốn thích đáng để đầu tư
    vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động

    của doanh nghiệp. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác
    nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng hoá và cuối cùng lại
    trở về trạng thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
    nghiệp diễn ra liên tục không ngừng, cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không
    ngừng, có tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn.
    Do sự chu chuyển không ngừng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ phận
    tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất và lưu
    thông.
    Tóm lại vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động
    và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực
    hiện được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động lưu động toàn bộ giá trị ngay trong
    một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
    Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất.
    Qua phần trình bày trên có thể thấy trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh
    nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn lưu động và tồn tại dưới những hình thái
    khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn
    lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó khiến cho các hình thái có được mức
    tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy, sẽ khiến cho việc chuyển hoá hình thái
    của vốn trong quá trình lưu động được thuận lợi. Nếu như doanh nghiệp nào đó, không
    đủ vốn thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn, và do đó quá trình sản xuất cũng bị
    trở ngại hoặc gián đoạn.
    Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật
    tư hàng hóa, tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm dự trữ, sản xuất, tiêu thụ
    của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là phản ánh sự vận động
    của vật tư hàng hóa. Nhìn chung vốn lưu động nhiều ít phản ánh số lượng vật tư sử
    dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông sản phẩm có
    hợp lý hay không hợp lý. Bởi vậy thông qua tình hình lưu động vốn lưu động còn có
    thể đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ
    của doanh nghiệp.
    b.Ý nghĩa của vốn lưu động
    Vốn lưu động là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp
    nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.Vốn lưu động cùng một lúc được

    phân bổ khắp các giai đoạn sản xuất và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn
    cho quá trình sản xuất và tái sản xuất được liên tục thì doanh nghiệp phải có đủ vốn
    đầu tư vào các hình thái đó để cho nó có được một mức tồn tại hợp lý và đồng bộ, từ
    đó giúp cho việc luân chuyển vốn được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì
    sẽ gặp không ít khó khăn trong khâu tổ chức sử dụng vốn và gây gián đoạn cho tiến
    trình sản xuất kinh doanh.Vốn lưu động còn là công cụ để phản ánh quá trình vận động
    của vật tư hay khác hơn là kiểm tra và phản ánh quá trình mua sắm, dự trữ, tiêu thụ.
    Do đó nó là điều kiện cần và đủ cho hoạt động sản suất kinh doanh. Một nguồn lực dồi
    dào về vốn lưu động sẽ giúp cho doanh nghiệp tự chủ trong quá trình kinh doanh, nắm
    bắt được các cơ hội tốt dể có thể đầu tư, tìm kiếm nguồn lợi cho doanh nghiệp mình.
    Đồng thời với việc nắm bắt đựơc tình hình biến động của thị trường giúp cho hoạt
    động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và ngược lại, trong quá trình kinh doanh thì
    doanh nghiệp cũng không ít khi trường hợp mất mát, rủi ro, giảm giá,. Nếu doanh
    nghiệp không đủ vốn lưu động để đối phó thì có thể rơi vào tình trạng khó đứng vững
    trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Do đó vốn lưu động là yếu tố nâng cao tính
    cạnh tranh của doanh nghiệp.
    c.Các nhân tố ảnh hưởng
    Tùy thuộc vào các nhân tố như qui mô sản xuất, uy tín, các mối quan hệ trong
    quá trình kinh doanh, đặc điểm của từng ngành và các điều kiện khách quan của nền
    kinh tế trong khu vực mà nó tác động một cách trực tiếp lên lượng vốn lưu động của
    mỗi doanh nghiệp.
    Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì khả năng phát triển việc đầu tư vào tài sản cố
    định là rất khó do qui mô không bảo đảm, nên phần lớn chỉ nhờ vào sự vận động của
    vốn lưu động.Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ cần một tỷ lệ vốn lưu động cao chiếm
    trong tổng số tài sản lớn hơn các doanh nghiệp lớn có khả năng đầu tư vào tài sản cố
    định. Bên cạnh đó, mỗi ngành khác nhau đều có đặc điểm kinh doanh riêng nên lượng
    vốn lưu động cần cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, các
    mối quan hệ của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến lượng vốn lưu động. Nếu
    doanh nghiệp có uy tín trên thị trường, có mối quan hệ tốt với nhà cung ứng, với khách
    hàng, .thì nhu cầu về vốn lưu động cũng ít đi (xem xét giữa các doanh nghiệp đồng
    nhất). Ngoài ra, nếu nền kinh tế ổn định thì doanh nghiệp cũng yên tâm hơn, nhu cầu
    về vốn lưu động lúc đó cũng sẽ thấp hơn.



    Chương II:
    THỰC TRẠNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG VÀ
    NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC DOANH
    NGHIỆP CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI
    2.1. Giới thiệu khái quát về ngành thương mại Thành phố Đà Nẵng
    2.1.1. Lịch sử phát triển ngành thương mại thành phố
    Nhìn lại lịch sử ngành thương mại Việt Nam trước cách mạng tháng 8 năm
    1945 chúng ta nhận thấy: hoạt động thương mại dịch vụ trong thời kỳ này bị thu hẹp
    trong thị trường địa phương nhỏ bé, làm môi giới cho những người sản xuất nhỏ trao
    đổi hàng hóa và làm môi giới cho địa chủ phong kiến đem bán một phần sản phẩm
    thặng dư chiếm đoạt được của người lao động. Sản xuất hàng hóa sản đơn và một thị
    trường trong nước chật hẹp, chia cắt là đặc điểm nỗi bật của kinh tế Việt Nam thời kỳ
    này. Ngành thương mại Thành phố Đà Nẵng cũng không nằm ngoài bối cảnh chung
    đó.
    Tuy nhiên từ thế kỷ 17, các nhà buôn Hà Lan đã có mặt tại Hội An và thiết lập
    quan hệ mua bán. Một số nước bán sản phẩm công nghiệp của mình cho Việt Nam và
    mua hàng thủ công nghiệp cùng sản vật thiên nhiên. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ đã phát
    triển thêm một bước, họat động kinh doanh thương mại được hình thành.
    Ngay sau khi giải phóng, ngành thương mại Thành phố Đà Nẵng bắt tay ngay
    vào việc thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng phát triển đất
    nước. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán đã hình thành rộng
    khắp từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi. Việc cung ứng, phục vụ
    nguyên vật liệu cho sản xuất, cung cấp hàng hóa tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu ăn, ở,
    đi lại, học hành, chữa bệnh, cho nhân dân đều do hệ thống thương nghiệp quốc
    doanh và hợp tác xã đảm nhận.
    Thời kỳ từ năm 1986 – 1990: là giai đoạn chuyển đổi cơ chế, từ chổ phân phối
    giao nộp theo chỉ tiêu chuyển sang hình thức kinh doanh đảm bảo hiệu quả theo cơ chế
    thị trường: từ chổ lưu thông hàng hóa chủ yếu do thương mại Nhà nước đảm nhiệm
    chuyển sang nền thương mại với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế.
    Giai đoạn 1991 – 1998: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông
    Âu tan rã, hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, hệ thống thị trường bị chia
    cắt gần như hoàn toàn, các DNTM trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng phải tự tìm tòi thị
    trường mới, phương thức kinh doanh mới.

    Giai đoạn 1999 – nay: Luật Doanh nhiệp ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho
    các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường thuận lợi, khuyến khích cho các doanh
    nghiệp phát huy tinh thần tự chủ, năng động và sáng tại trong kinh doanh. Nhờ đẩy
    mạnh lưu thông hàng hóa và xuất nhập khẩu nên hoạt động thương mại đã tác động
    mạnh mẽ, tích cực đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân thành phố. Đặc biệt
    khi thành phố Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung Ương, Đà Nẵng tập
    trung vào xây dựng cơ sở kỹ thuật, chú trọng tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp hoạt
    động thông qua các cơ chế chính sách như: Ưu đãi đầu tư, ưu đãi thuế, vốn, hổ trợ mặt
    bằng, những yếu tố đó đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại trên
    địa bàn lên một diện mạo và tầm vóc mới. Bên cạnh đó, Thành phố Đà Nẵng với vị trí
    địa lý thuận lợi, điều kiện tự nhiên ưu đãi, là đầu mối giao thương giữa các vùng miền
    và khu vực nên có nhiều lợi thế và tiềm năng để phát triển hoạt động kinh doanh
    thương mại.
    Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển, ngành thương mại Thành phố Đà
    Nẵng trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, đặc biệt là trong
    thời kỳ đổi mới kinh tế của đất nước, ngành thương mại đã đóng vai trò quan trọng và
    tác động tích cực đến hoạt động sản xuất và đời sống của nhân dân, góp phần thúc đẩy
    phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
    đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
    2.1.2. Khái quát các Doanh nghiệp Cổ phần thương mại trên địa
    bàn thành phố Đà Nẵng
    Đặc điểm về loại hình doanh nghiệp và cơ cấu của nó trên địa bàn Thành
    phố Đà Nẵng,.
    Số lượng và tỉ lệ cụ thể của các DNTM trên địa bàn Thành phố qua các năm
    được thể hiện ở bảng dưới đây:
    Cơ cấu loại hình DNTM trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng qua 4 năm
    (2001 – 2004)
    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD]Loại hình
    DN
    lượng

    [TABLE]
    [TR]
    [TD]Loại hình
    DN
    [/TD]
    [TD="colspan: 2"]Năm 2001
    [/TD]
    [TD="colspan: 2"]Năm 2002
    [/TD]
    [TD="colspan: 2"]Năm 2003
    [/TD]
    [TD="colspan: 2"]Năm 2004
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Số[/TD]
    [TD]Tỉ lệ
    (%)
    [/TD]
    [TD]Số
    lượng
    [/TD]
    [TD]Tỉ lệ
    (%)
    [/TD]
    [TD]Số
    lượng
    [/TD]
    [TD]Tỉ lệ
    (%)
    [/TD]
    [TD]Số
    lượng
    [/TD]
    [TD]Tỉ lệ
    (%)
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]DNTN
    [/TD]
    [TD]524
    [/TD]
    [TD]44.82
    [/TD]
    [TD]704
    [/TD]
    [TD]44.98
    [/TD]
    [TD]799
    [/TD]
    [TD]44.02
    [/TD]
    [TD]791
    [/TD]
    [TD]32.97
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Doanh nghiệp CP
    [/TD]
    [TD]12
    [/TD]
    [TD]1.03
    [/TD]
    [TD]15
    [/TD]
    [TD]0.96
    [/TD]
    [TD]20
    [/TD]
    [TD]1.10
    [/TD]
    [TD]32
    [/TD]
    [TD]1.33
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Doanh nghiệp TNHH
    [/TD]
    [TD]611
    [/TD]
    [TD]52.27
    [/TD]
    [TD]826
    [/TD]
    [TD]52.78
    [/TD]
    [TD]978
    [/TD]
    [TD]53.88
    [/TD]
    [TD]1559
    [/TD]
    [TD]64.99
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]



    (Nguồn: Phòng đăng ký kinh doanh - Sở KHĐT Thành phố Đà Nẵng
    (*): Phòng Tổng hợp - Sở Thương mại Thành phố Đà Nẵng )
    (*): Kể cả doanh nghiệp đã CPH có vốn nhà nước >51%)
    Số liệu trên cho thấy, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong giai đoạn 2001 –
    2004, loại hình DNTM chiếm tỉ lệ bình quân 41,70%, Doanh nghiệp CP chiếm 1.11%,
    Doanh nghiệp TNHH chiếm 55.97% và DNTM nhà nước chỉ chiếm tỉ lệ 1,22%.
    Xem xét biểu số liệu qua bốn năm, cho thấy trong cơ cấu loại hình doanh
    nghiệp của các DNTM trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng đang diễn biến theo chiều
    hướng: loại hình Doanh nghiệp DNTM có số lượng và tỉ lệ tăng dần qua các năm và
    chiếm tỷ lệ cao nhất; loại hình DNTM mặc dù có số lượng và tỷ lệ tương đối cao song
    có xu hướng giảm dần qua các năm, nguyên nhân chính là do có một số DNTM
    chuyển đổi qua các loại hình Doanh nghiệp TNHH, Doanh nghiệp CP (không loại trừ
    một số DNTM giải thể, phá sản theo luật doanh nghiệp). Loại hình DNTM nhà nước
    có số lượng và tỉ lệ bình quân khá khiêm tốn. Nguyên nhân cơ bản là do chính sách
    CPH các DNTM nhà nước của Chính phủ. Trường hợp Doanh nghiệp CP cũng tương
    tự DNTM nhà nước, nguyên nhân cơ bản là: do tâm lý e ngại ở vấn đề góp vốn, do sự
    thiếu hiểu biết về loại hình này, do trình độ của người quản lý còn hạn chế Tuy
    nhiên, theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, các chuyên gia kinh tế cho
    rằng: trong các loại hình doanh nghiệp, loại hình Doanh nghiệp CP có nhiều ưu điểm
    hơn; và cùng với mô hình Doanh nghiệp mẹ - con, đó là hai loại hình sẽ và ngày càng
    phổ biến trong các nền kinh tế hiện đại. Ưu điểm nỗi bật của cả hai loại hình trên là
    khả năng phân tán rủi ro cho nhiều cổ đông cùng chịu,cũng như khả năng huy động
    vốn từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó tập trung nguồn lực tài chính cho đầu tư.
    Như vậy, có thể nói rằng, về mặt pháp lý, nhà nước đã tạo ra cho các DNTM
    những sự lựa chọn khác nhau về loại hình doanh nghiệp, còn trên thực tiễn, chính ưu
    thế và hiệu quả của mỗi loại hình sẽ quyết định xu thế lựa chọn của các DNTM trong
    khuôn khổ của hệ thống pháp luật hiện hành.
    Trong những năm gần đây, ngành Thương mại dịch vụ nói chung trên địa bàn
    thành phố Đà Nẵng đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhờ đẩy mạnh lưu thông
    hàng hóa và xuất nhập khẩu nên hoạt động thương mại đã tác động mạnh mẽ, tích cực
    đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân thành phố; đặc biệt khi thành phố Đà
    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD][TABLE]
    [TR]
    [TD]DNTM nhà nước (*)
    [/TD]
    [TD]22
    [/TD]
    [TD]1.88
    [/TD]
    [TD]20
    [/TD]
    [TD]1.28
    [/TD]
    [TD]18
    [/TD]
    [TD]0.99
    [/TD]
    [TD]17
    [/TD]
    [TD]0.71
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tổng số
    [/TD]
    [TD]1169
    [/TD]
    [TD]100
    [/TD]
    [TD]1565
    [/TD]
    [TD]100
    [/TD]
    [TD]1815
    [/TD]
    [TD]100
    [/TD]
    [TD]2399
    [/TD]
    [TD]100
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]


    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Chương III:
    NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU
    ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI
    3.1. Những ưu điểm và tồn tại trong việc sử dụng vốn lưu động của các doanh
    nghiệp cổ phần thương mại trên địa bàn thành phố Đà nẵng.
    3.1.1. Về Ưu điểm
    Các Công ty cổ phần trên địa bàn Đà Nẵng là một thành phần kinh tế đóng vai
    trò quan trọng trong kĩnh vực kinh doanh, các công ty đã góp phần làm đa dạng hóa
    các loại hình kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế của thành phố có nhiều chuyển biến
    tích cực, giải quyết một lượng lớn lao động xã hội và giúp cho việc lưu chuyển hàng
    hóa tăng mạnh trong thời gian qua

    Nhu cầu thị trường về sản phẩm hàng hoá ngày càng cao, chức năng và quyền
    hạn của các công ty được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh đa
    dạng hoá hình thức kinh doanh và sản phẩm hàng hoá.

    3.1.2.Tồn tại
    Đà Nẵng là một thành phố lớn, tốc độ phát triển ngày càng cao. Kinh tế thị
    trường ngày càng phát triển đa dạng, từ đó xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh lớn. Đây
    là một thách thức lớn cho các công ty.

    Tốc độ phát triển thông tin phát triển đến chóng mặt mà khả năng thu thập
    thông tin nghiên cứu thị trường càn có mặt hạn chế, chưa xác thực với nhu cầu của
    khách hàng. Đây là mặt hạn chế lớn của đa số các công ty.

    Chưa có chính sách chiết khấu đặt ra với khách hàng.

    Các khoản thu quay vòng chậm.
    3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các
    doanh nghiệp cổ phần thương mại trên địa bàn thành phố Đà nẵng.
    Qua phân tích ở Chương II và những ưu nhược đểm như đã trình bày thì chúng
    ta thấy được rằng, các Doanh nghiệp thương mại nói chung và Cổ phần thương mại
    nói riêng để đảm bảo cho chiến lược kinh doanh của mình đều phải nhận thức rõ việc
    nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sao cho thật hiệu quả và thật sự mạng lại
    những lợi ích từ việc sử dụng dụng những nguồn vốn đó. Đối với các doanh nghiệp
    thương mại thì mua hàng nhập kho chờ bán. Khi bán chịu cho khách hàng, hàng tồn

    kho sẽ chuyển thành các khoản phải thu và chúng ta sẽ được thu hồi sau đó. Khoảng
    thời gian cần thiết để thu tiền từ khách hàng ta gọi là kỳ thu tiền.
    Còn khi mua hàng hoá thì ngược lại, nếu trả tiền ngay cho người bán sẽ tạo ra
    các khoản phải trả. Khoảng thời gian từ lúc nhận hàng cho đến khi thực sự trả tiền cho
    người bán ta gọi là kỳ trả tiền.
    Mối quan hệ giữa các tài khoản vốn lưu động với việc thu tiền và chi tiền được
    mô tả khái quát trong sơ đồ ngân lưu dưói đây:




    ĐẶT HÀNG



    Nhận hàng



    Bán hàng



    Yêu cầu



    THU TIỀN


    thanh toán


    Hàng tồn kho

    Khoản phải


    thu

    Kỳ thu tiền




    Khoản phải



    Kỳ trả tiền



    TRẢ TIỀN


    trả
    Yêu cầu
    thanh toán


    Biểu đồ ngân lưu thể hiện mối quan hệ giữa các tài khoản vốn lưu động trong
    khuôn khổ thời gian. Đây cũng chính là điều mà những nhà quản lý vốn lưu động cần
    quan tâm để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp của
    mình.
    Thời gian mà tài sản ngắn hạn nhàn rỗi dưới dạng hàng tồn kho, khoản phải thu
    càng lâu thì giá trị công ty nói chung bị mất đi càng nhiều. Ngược lại, nguồn vốn ngắn
    hạn được duy trì ở dạng khoản phải trả và chi phí phải trả thì giá trị tăng lên càng
    nhiều mà chúng ta thường hay hiểu gọi quá trình này là “bị chiếm dụng và đi chiếm
    dụng”
    Chúng ta nhận thấy rằng mọi quyết định đều gây ra tác động tiền tệ lên hình
    thức sử dụng cũng như nguồn tiền. Công việc của người quản lý là làm thế nào phải
    luôn duy trì mức cân bằng thích đáng giưũa luồng tiền vào và luồng tiền ra. Vì thế
    kiểm soát hoạt động dòng lưu chuyển tiền tệ sao cho phù hợp là chìa khoá thành công
    của doanh nghiệp
    Khoảng thời gian từ khi thu được tiền cho đến khi phải chi tiền gọi tắt là kỳ
    luân chuyển tiền. Thông thường doanh nghiệp phải trả cho hàng hoá mua vào trước
    khi thu được tiền của hàng hoá mà doanh nghiệp bán ra. Kỳ luân chuyển tiền càng
    ngắn thể hiện chính sách quản lý vốn lưu động có hiệu quả. Ngược lại, kỳ luân chuyển
    tiền càng dài, nguồn lực càng bị lãng phí.
    Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động dưòng như là một thách
    thức lớn trong việc kiểm soát dòng tiền. Các thành phần chính gồm vốn lưu động,
    khoản phải thu, hàng tồn kho, khoản phải trả, chúng thường đại diện cho các nguồn tài
    chính quan trọng trong một doanh nghiệp. Thật ra, mức vốn lưu động cơ bản ( thường
    được định nghĩa là chênh lệch giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn) mà doanh nghiệp đang hoạt
    động là đaị diện cho sự đầu tư dài hạn được hổ trợ từ những nguồn vốn dài hạn. Tuy
    nhiên, mỗi thành phần đều phải được quản lý thận trọng để phù hợp với các yêu cầu
    thay đổi trong hoạt động, với mục tiêu giảm thiểu nguồn lực bỏ ra tại mọi thời điểm
    trong khi vẫn đáp ứng mọi điều kiện tất yếu cho hoạt động, như đảm bảo được các
    mục tiêu dịch vụ khách hàng và việc kinh doanh được suôn sẻ. Vì thế người quản lý
    cần xem xét những dao động trong kết cấu vốn lưu động.
    Xuất phát từ những lý do trình bày trên luận văn xin đưa ra một vài ý kiến nhằm
    quản trị tốt vốn lưu động để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
    thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Đà nẵng.
    3.2.1. Về cơ cấu vốn:
    Cơ cấu vốn có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh và sự
    phát triển của Doanh nghiệp, vì vậy ban giám đốc các Doanh nghiệp cổ phần thương
    mại cần phải xem xét và điều chỉnh cơ cấu vốn của Doanh nghiệp đạt được sự hợp lý
    Cơ cấu vốn là quan hệ về tỷ trọng của từng loại vốn dài hạn bao gồm nợ, vốn cổ
    phần ưu đãi và vốn cổ phần thường trong tổng số nguồn vốn của Doanh nghiệp. Vấn
    đề đặt ra là tổng giá trị của Doanh nghiệp và lợi nhuận đòi hỏi sẽ thay đổi thế nào khi
    tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu thay đổi? Để giải quyết vấn đề này, các Doanh nghiệp cổ
    phần phải xác định đúng cơ cấu vốn tối ưu tức là phải xem xét đến sự cân bằng giữa
    rũi ro và lợi nhuận. Tuy nhiên do cơ cấu vốn có ảnh hưởng đến lợi nhuận dành cho cổ
    đông nên Doanh nghiệp cần thiết phải hoạch định cơ cấu vốn mục tiêu. Cơ cấu vốn
    mục tiêu là sự kết hợp giữa nợ, cổ phiếu ưu đãi, và cổ phiếu thường trong tổng nguồn
    vốn của Doanh nghiệp theo mục tiêu đề ra. Khi hoạch định chính sách cơ cấu vốn cần
    chú ý đến mối quan hệ của việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro, đó là: sử dụng
    nhiều nợ làm gia tăng rủi ro Doanh nghiệp, nhưng tỷ lệ nợ cao nói chung đưa đến lợi
    nhuận kỳ vọng cao.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...