Luận Văn Tình hình hoạt động của các Công ty chứng khoán trong mối quan hệ giao dịch từ hai khía cạnh: quy đị

Thảo luận trong 'Chứng Khoán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    [TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD="class: rows1, bgcolor: #DEE4FE, align: left"]Tình hình hoạt động của các Công ty chứng khoán trong mối quan hệ giao dịch từ hai khía cạnh: quy định pháp lý và đạo đức

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Mở đầu










    Thị trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam đã đi vào hoạt động


    được hơn 4 năm, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu nền kinh tế thị trường nói chung và thị trường tài chính ở nước ta nói riêng. Thị trường chứng khoán tập trung ra đời đã mở ra một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Tuy quy mô còn nhỏ bé, vai trò tác động
    đến nền kinh tế chưa lớn nhưng TTCK Việt Nam thời gian qua đã có những bước tiến quan trọng. Điều đáng ghi nhận trước hết là sự vận hành và hoạt
    động suôn sẻ, an toàn của thị trường đã thu hút được số đông các nhà đầu tư tham gia và dần hình thành thói quen, tập quán đầu tư chứng khoán trong công chúng. Bên cạnh đó, sự trưởng thành cả về số lượng và chất lượng của các chủ thể quan trọng khác tham gia thị trường như các tổ chức niêm yết, công ty chứng khoán cũng là một dấu hiệu tích cực.


    TTCK là loại thị trường đặc biệt, ở đó các pháp nhân và cá nhân tham gia giao dịch trên thị trường đều phải thông qua các công ty chứng khoán. Khách hàng của các công ty chứng khoán chính là các chủ thể tham gia TTCK, với tư cách là người đại diện cho nguồn cung và cầu chứng khoán. Khách hàng của công ty chứng khoán cũng rất đa dạng, bao gồm các doanh nghiệp, nhà đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ tương hỗ, Chính phủ, chính quyền địa phương nên có nhiều nhu cầu khác nhau. Khi thiết lập mối quan hệ giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán, cả hai bên thường tìm hiểu những vấn đề liên quan
    đến nhau và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Mặt khác, mối quan hệ này còn mang tính nhân bản: trách nhiệm từ khía cạnh đạo đức, văn hoá ứng xử, bổ sung thêm cho văn hoá đầu tư được lành mạnh và hiệu quả. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Luật Chứng khoán, các vấn đề liên quan đến công ty chứng khoán và khách hàng mới chỉ được đề cập rải rác trong một số văn bản. Việc nghiên cứu vấn đề này sẽ làm sáng tỏ mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng.



    Để thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010,


    đặc biệt chú trọng phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng là vấn đề không nhỏ, tạo nên chất xúc tác quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư đến với các dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao. Việc nghiên cứu vấn đề này cũng có ý nghĩa thực tiễn phù hợp với định hướng phát triển của các định chế trung gian thị trường trong những năm sắp tới.


    Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước:




    ở ngoài nước, vấn đề này đã được quy định trong các Luật chứng khoán, những Quy định, Quy chế của Sở Giao dịch và một số văn bản pháp quy khác. Ngoài ra, vấn đề này thường rất được chú trọng trong các chương trình giảng dạy và sát hạch cho các nhân viên muốn làm việc tại các công ty chứng khoán;


    ở trong nước, các văn bản pháp quy mới đề cập rải rác một số nguyên tắc về mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng.


    Như vậy, mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng nên được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống hơn trên phương diện các dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp thì tính thực tiễn sẽ cao hơn.


    Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:


    - Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong mối quan hệ


    giữa công ty chứng khoán và khách hàng;


    - Hệ thống hoá các văn bản pháp lý quy định các mối quan hệ trên;


    - Nghiên cứu thực trạng của mối quan hệ này tại Việt Nam;


    - Nghiên cứu mối quan hệ từ khía cạnh đạo đức;


    - Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng theo xu hướng phát triển của TTCK tại Việt Nam.



    Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán và khách hàng của họ trong mối quan hệ giao dịch từ hai khía cạnh: quy định pháp lý và đạo đức.


    Phương pháp nghiên cứu: Trong đề tài có sử dụng các phương pháp như thống kê, tổng hợp, cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa duy vật biện chứng.


    Nội dung của đề tài gồm 3 chương:


    - Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng;


    - Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa các công ty chứng khoán và


    khách hàng tại Việt Nam;


    - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng.



    Chương I


    Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng




    1.1 . Công ty chứng khoán và khách hàng


    Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) có hiệu quả, một trong các yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường cùng với đông đảo các nhà đầu tư chứng khoán. Các nhà đầu tư tham gia TTCK không chỉ với mục tiêu làm lợi cho mình mà chính là tham gia vào quá trình tích tụ vốn đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Nhưng hoạt động của TTCK phải được điều tiết trật tự, công bằng và hiệu quả nên cần và phải có các định chế trung gian với tư cách là các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán tạo nên mối liên kết giữa các nhà đầu tư với hoạt động của thị trường. Từ ý nghĩa đó, các tổ chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán mà cụ thể hơn là các công ty chứng khoán và các nhà đầu tư - những khách hàng của công ty chứng khoán có vai trò đặc biệt đối với TTCK.


    1.1.1. Công ty chứng khoán


    Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK cho thấy, khi nhu cầu mua bán chứng khoán xuất hiện sẽ tạo nên những tụ điểm mua, bán chứng khoán sơ khai và sau đó hình thành nên TTCK. Cũng như các thị trường khác, lúc
    đầu những người tham gia mua, bán chứng khoán là những cá nhân sở hữu chứng khoán. Về sau, khi thị trường phát triển, khối lượng vốn luân chuyển ngày càng lớn, đòi hỏi phải có những tổ chức trung gian hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán từ đó cũng đa dạng hơn. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán do các tổ chức thực hiện chung quy vẫn được gọi là các công ty chứng khoán, là chủ thể mà đề tài này nghiên cứu.



    Kết luận






    Sự hình thành và phát triển của TTCK là đỉnh cao của nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, TTCK đã tạo ra những hàng hoá ngày càng đa dạng. Theo đó, các chủ thể tham gia thị trường không chỉ ngày càng phát triển về số lượng mà trên bất cứ TTCK nào, mục tiêu về chất lượng hoạt động luôn được đặt lên hàng đầu để có được hiệu quả tối đa.
    Để đạt mục tiêu đó, việc hoàn thiện và phát triển mối quan hệ giữa các tổ chức trung gian mà đặc trưng là các công ty chứng khoán với khách hàng là một yếu tố mang tính quyết định cho cả sự tồn tại và phát triển của TTCK nói chung. Vì vậy, với bất cứ công ty chứng khoán nào, mối quan hệ với khách hàng luôn được coi là sự sống còn, là chiến lược để phát triển. Nó không chỉ
    được quan tâm ở những thị trường phát triển mà với những thị trường non trẻ


    như TTCK Việt Nam.




    Để có thể hoàn thiện mối quan hệ giữa công ty chứng khoán và khách hàng, cùng một lúc chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp với sự kết hợp giữa các bên liên quan, từ cơ quan quản lý nhà nước, các công ty chứng khoán và khách hàng của các công ty chứng khoán. Khi mối quan hệ này được
    điều chỉnh và hoàn thiện sẽ là một yếu tố góp phần không nhỏ vào sự thành công của thị trường, của từng công ty chứng khoán và bản thân quyền lợi của các khách hàng cũng được bảo vệ.


    Nhóm đề tài xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của các chuyên gia thuộc Ban Quản lý Kinh doanh chứng khoán, Thanh tra UBCKNN, Ban Hợp tác Quốc tế, một số nhân viên của các công ty chứng khoán tại Hà Nội và các đồng nghiệp khác đã hỗ trợ chúng tôi trong việc hoàn thành đề tài này.
     
Đang tải...