Chuyên Đề Tình hình cạnh tranh dịch vụ của các ngân hàng

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tình hình cạnh tranh dịch vụ của các ngân hàng
    Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm của Việt Nam trong quá trình đàm phán đã diễn ra rất gay go và quyết liệt nhưng cuối cùng cũng đi đến thành công trên khía cạnh phù hợp với chủ trương của Chính phủ và các cam kết của WTO. Về cơ bản Việt Nam cam kết sẽ giành đối xử quốc gia cho các ngân hàng nước ngoài. Như vậy, các ngân hàng nước ngoài sẽ thâm nhập vào Việt Nam dưới hai hình thức hiện diện thương mại chính là: Một là thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Hai là, các nhà đầu nước ngoài sẽ mua cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo tỉ lệ cho phép. Đây cũng chính l sức ép đối với các ngân hàng trong nước sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
    Điểm mạnh của các ngân hàng trong nước: trước hết là mạng lưới. Các ngân hàng thương mại trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các chi nhánh và sở giao dịch. Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được mối quan hệ với các hệ thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống khách hàng truyền thống để chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ nhiều năm, đặc biệt là khối các ngân hàng thương mại nhà nước. Thứ ba, với thâm niên hoạt động của mình, các ngân hàng nội địa rất am hiểu tập quán phong tục, tâm lý khách hàng Việt Nam. Đây là một lợi thế trong việc chăm sóc khách hàng.
    Tuy nhiên các ngân hàng thương mại trong nước cần sớm khắc phục các hạn chế: Thứ nhất, năng lực tài chính của các ngân hàng nội địa còn rất non yếu. Theo dự đoán của VAFI - Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD / ngân hàng, đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1 - 2 tỷ USD / ngân hàng ở các nước trong khu vực. Thứ hai, các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng nội địa chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tín dụng. Theo HSBC, doanh thu từ thanh toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty Việt Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng. Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến vấn đề nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám. Bên cạnh những điểm hạn chế hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên, các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co hẹp.
    Các động thái chuẩn bị cho một cuộc đua mới: Bức tranh về áp lực cạnh tranh trong ngành ngân hàng trước sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã hiện rõ :
    Thứ nhất, các ngân hàng nội địa đã tăng vốn điều lệ. Giải pháp này nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro, nâng cao tiềm lực tài chính.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...