Tài liệu Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)


    I. THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ VỀ MẶT NHÀ NƯỚC

    1. Yêu cầu lịch sử của đất nước sau 30 năm chiến tranh

    Sau đại thắng mùa Xuân 1975, một thời kỳ mới đã mở ra trên đất nước ta: thời kỳ hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội vừa là xu thế phát triển của đất nước ta vừa là nguyện vọng của nhân dân ta. Với việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, chiến tranh kết thúc, hoà bình được lập lại, giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã hoàn thành, đất nước thống nhất, nhân dân ta trở thành người làm chủ toàn bộ đất nước, làm chủ toàn bộ đất đai, rừng biển và thiên nhiên. Như vậy, chúng ta đã có đủ điều kiện để xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, công bằng, phù hợp xu thế phát triển của thời đại. Sau bao nhiêu năm chiến tranh, nhân dân ta không có nguyện vọng nào tha thiết hơn là được sống độc lập, tự do để xây dựng lại đất nước nhưDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:

    Còn non, còn nước, còn người
    Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay

    Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội là xu thế chung của đất nước. Nhưngquá độ lên chủ nghĩa xã hội như thế nào cho phù hợp đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, chưa có đại công nghiệp, đó là yêu cầu lịch sử thứ nhất đặt ra cho Đảng ta và nhân dân ta sau 30 năm chiến tranh.

    Yêu cầu lịch sử thứ hai đặt ra cho Đảng và nhân dân ta là ở một nước đã trải qua ba mươi năm chiến tranh quyết liệt, liên tục, sau khi kết thúc chiến tranh các thế lực thù địch lại có âm mưu gây chiến mới, nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa cảnh giác và chuẩn bị đối phó với những âm mưu gây chiến.

    Yêu cầu lịch sử thứ ba là muốn tạo thêm sức mạnh mới, phải củng cố sự thống nhất đất nước bằng cách hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của sự nghiệp thống nhất.

    2. Thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước

    Sau ngày 30-4-1975 tuy nhân dân ta làm chủ toàn bộ đất nước, đất nước đã thống nhất, nhưng về mặt Nhà nước thì còn hai chính phủ, ở hai miền có hai mặt trận và các đoàn thể quần chúng riêng. Tháng 8-1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã quyết định: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

    Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24, tháng 10-1975, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên đặc biệt bàn việc thống nhất nước nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Tháng 11-1975, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và đại biểu nhân sĩ, trí thức đã họp hội nghị liên tịch bàn việc thống nhất nước nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.

    Hội nghị hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Nam, Bắc họp tại Sài Gòn từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975 đã ra Thông cáo khẳng định nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất về mặt Nhà nước. Hội nghị nhất trí: Cần tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976, theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

    Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị nêu rõ tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử.

    Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam quyết định lấy ngày 25-4-1976 là ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất và thành lập Hội đồng bầu cử toàn quốc.

    Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã phấn khởi đi bỏ phiếu, đạt tỉ lệ 98,77% (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%). 492 đại biểu đã được bầu vào Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo.

    Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước - đây là Quốc hội khoá VI, biểu thị ý chí của toàn dân ta xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, là thắng lợi của lòng quyết tâm phấn đấu thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.

    Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.

    Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất của Đảng - đã trình bày trước Quốc hội tình hình và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam và kiến nghị về đường lối đối nội và đối ngoại của Nhà nước.

    Ngày 2-7-1976, Quốc hội đã quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Thủ đô là Hà Nội, quốc ca là bài Tiến quân ca.

    Quốc hội khoá VI quyết định thành phố Sài Gòn được mang tên Hồ Chí Minh và quyết định thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Quốc hội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch, đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội và đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Tháng 6-1976, theo chủ trương của Trung ương Đảng, các tổ chức quần chúng thanh niên, phụ nữ, công đoàn và Mặt trận Tổ quốc cũng họp hội nghị hợp nhất, thống nhất cơ quan lãnh đạo trong toàn quốc.

    II. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IV CỦA ĐẢNG (THÁNG 12-1976)

    Quá trình chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tiến hành từ sau khi ký Hiệp định Pari. Các dự thảo văn kiện trình Đại hội đã tiếp thu ý kiến của Đại hội các cấp bộ Đảng.

    Đại hội trù bị của Đại hội IV họp từ ngày 29-11 đến ngày 10-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước.

    Đại hội chính thức họp từ ngày 14 đến 20-12-1976. Đến tham dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

    Sau lời khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, đồng chí Trường Chinh chủ trì phiên họp, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất trình bàyBáo cáo chính trị, đồng chí Phạm Văn Đồng trình bàyBáo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng chí Lê Đức Thọ trình bàyBáo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...