Chuyên Đề Tìm hiểu về phong trào nhân văn - giai phẩm

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Thụy Khuê
    PHẦN I
    TÌM HIỂU PHONG TRÀO
    Càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ, những gì chúng ta góp nhặt được về
    những con người như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi,
    Thụy An, Trương Tửu .qua những văn bản do chính họ viết ra, hoặc vài ba dòng hồi
    ký của người này người kia, cũng chỉ là phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những
    loại nhật ký, hồi ký đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những
    di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu.
    Nhân Văn-Giai Phẩm là Phong Trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn
    nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị
    chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958.
    Hai nguồn tài liệu sớm nhất về Nhân Văn-Giai Phẩm là Trăm Hoa Đua Nở
    Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Tự Do Văn Hóa in ở Sài Gòn năm
    1959, và Bọn Nhân Văn-Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận do nhà xuất bản Sự Thật
    Hà Nội in năm 1959. Ngoài hai tập tài liệu này còn có những tập tài liệu khác, ra đời
    hơn 30 năm sau.
    Trước hết là cuốn ‘’Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam’’ (Trăm Hoa
    Đua Nở Trong Đêm Việt Nam) của Georges Boudarel. Georges Boudarel, nay đã
    qua đời, là nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, 1947 sang Việt Nam với mục đích
    tranh đấu chống chính quyền thuộc địa. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel
    theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ ‘’cải tạo’’ tù nhân Pháp ở Trại 113. Năm 1966, vì
    không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp. Trong thời gian ở Việt
    Nam, ông đã gặp gỡ nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có những thành viên Nhân
    Văn-Giai Phẩm và Boudarel đã mang được về Pháp những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm,
    và một số báo xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ này.
    Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh ‘’cởi trói văn nghệ’’ của tổng bí thư
    Nguyễn văn Linh, Georges Boudarel đã viết loạt bài tựa đề Dissidences
    intellectuelles au Viêt-Nam L'affaire Nhan Van-Giai Pham (Trí thức phản kháng tại
    Việt Nam, vụ Nhân Văn-Giai Phẩm), in trên hai tập san Sudestasie (số 50 tháng
    1.1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản tháng Giêng năm 1989), sau
    tập hợp và đào sâu thành cuốn ‘’Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam’’ (Trăm
    Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam) do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
    Ngoại trừ việc Boudarel (cũng như Hoàng Văn Chí) đều cho rằng Phong Trào
    Nhân Văn-Giai Phẩm bắt nguồn từ Trăm Hoa Đua Nở bên Trung Quốc, là sai, và Lê
    Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính trong những buổi trả lời phỏng vấn trên RFI, cuốn
    sách của Georges Boudarel là tập tài liệu có giá trị bằng tiếng Pháp viết về Nhân
    Văn-Giai Phẩm, nhờ đó mà bi kịch Nhân Văn-Giai Phẩm đến được với người đọc
    tiếng Pháp.
    Từ những năm 90 trở đi, một loạt những tài liệu mới về Nhân Văn-Giai Phẩm
    xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác .của
    những thành viên đã tham gia Phong Trào như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu
    Loan, Hoàng Cầm .
    Trong số đó có hai tài liệu quan trọng là tập hồi ký viết bằng tiếng Pháp Un
    Excommunié (Kẻ Bị Khai Trừ, Nhà xuất bản Quê Mẹ, Paris, 1992) của Nguyễn Mạnh
    Tường với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel (Hà Nội 1954-1991:
    Kết án một nhà trí thức).
    Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại những thăng trầm trong cuộc đời ông gắn
    bó với lịch sử từ 10 giờ sáng ngày 10.10.1954 khi quân cách mạng tiến vào Hà Nội
    2 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    đến tháng 5.1991, thời điểm ông viết xong tập hồi ký. Sau 9 năm theo kháng chiến,
    Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được ưu đãi của
    chính quyền. Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm ra đời, ông tham gia và đã chịu sự
    trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Nguyễn Mạnh Tường mà chúng ta có thể hình dung
    được các Giáo Sư Đại Học cùng chí hướng với ông như Đào Duy Anh, Trần Đức
    Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc
    sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.
    Cuốn nhật ký Trần Dần ghi (Văn Nghệ, California, 2001), trích những ghi chép
    hàng ngày của Trần Dần, đặc biệt trong hai thời kỳ: Cải Cách Ruộng Đất và sau
    Nhân Văn-Giai Phẩm.
    Nếu hồi ký Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư (viết năm 1991, ở tuổi 82)
    gửi gấm cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng,
    thì nhật ký Trần Dần, ghi lại những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ
    đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường
    như mọi người, nhưng vô hiệu.
    Hoàng Văn Chí và Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc
    Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, do
    Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa xuất bản tại Sài Gòn, 1959, cho biết: ‘’Ở Hà Nội ra
    đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của
    họ’’, ‘’Tôi làm việc một mình’’, ‘’Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy Ban Kiểm
    Soát Đình Chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả
    báo chí xuất bản ở Hà Nội’’, ‘’Tôi làm việc trong hai năm 56-58’’. ‘’Bộ Thông Tin và
    nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông
    Tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào’’. ‘’Mặt Trận Bảo Vệ
    Tự Do Văn Hóa ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là
    Congress for Cultural Freedom, Trụ Sở Trung Ương ở 104 boulevard Haussmann,
    Paris. Bác Sĩ Lý Trung Dung làm Chủ Tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm Chủ Tịch Mặt Trận
    Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả’’. ‘’Trước
    khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn
    Trăm Hoa Đua Nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi
    lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định
    là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa’’ (Trích Phỏng vấn Cụ Hoàng Văn
    Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16.11.1986, phát
    hành tại Bỉ).
    Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập Trăm Hoa Đua Nở
    Trên Đất Bắc. Nhưng tại sao ông lại đặc biệt lưu ý đến Phong Trào Nhân Văn-Giai
    Phẩm ? Ai là những người ‘’ở lại’’ mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ ? Nếu
    tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta
    thấy câu trả lời:
    Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái (vì bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi, cho
    nên ba cô này là cháu Phan Khôi) cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì lấy
    Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng Nữ Sĩ Hằng Phương, vợ
    Nhà Phê Bình Vũ Ngọc Phan, sau này viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn-Giai Phẩm.
    Rất có thể vì thế, mà người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, đã là một
    trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn-
    Giai Phẩm.
    Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất
    về Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Trừ ba người: Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu
    và Lê Đạt bị loại ra (có thể Hoàng Văn Chí không thích hay không tin họ vì Nguyễn
    Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường
    3 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít). Phần lớn những thành viên
    khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những
    bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn-Giai Phẩm, đặc biệt tiểu sử Phan
    Khôi và Văn Cao, với những chi tiết mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Một phần vì
    Hoàng Văn Chí có liên hệ gia đình với Phan Khôi, nên một số dữ kiện chỉ ông biết,
    mà không tìm thấy ở những tài liệu khác. Những chi tiết ấy có thể một số người ở
    trong nước biết nhưng không dám viết ra. Sau này, không thiếu những cuốn sách
    viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường lại tô hồng, tiểu thuyết hóa, hoặc cắt xén
    vo tròn, khó tìm thấy sự thật.
    Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
    - Soạn giả không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu năm
    1955, cho nên khi thuật lại một số sự việc đôi khi có những chi tiết ông nhớ sai,
    những sai sót này, ngày nay, chúng ta có thể điều chỉnh lại được.
    - Hoàng Văn Chí là người chống cộng và ông để lộ lập trường khá rõ trong tác
    phẩm có tính cách biên khảo này. Vì vậy, ông chỉ nhắc sơ qua, hoặc không nhắc đến
    những bài quan trọng của Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt (vì những lý do
    đã nêu trên).
    - Ngoài ra, ông cũng cắt xén những đoạn mà các tác giả trong Nhân Văn-Giai
    Phẩm lên án ‘’tội ác Mỹ-Diệm’’, hoặc ca tụng đảng. Đặc biệt với bài Nhất Định Thắng
    của Trần Dần, ông đã lược bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu
    hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền
    Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý của Trần Dần trong thời điểm 1955-1956. Bản
    in lại trong tập Trần Dần thơ (nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008) cũng là bản Hoàng Văn
    Chí.
    Ngày nay, chúng ta có thể phân tích rõ ràng tư tưởng của mỗi thành viên, qua
    các văn bản mà họ để lại trên các báo Nhân Văn và Giai Phẩm. Một mặt khác, qua
    nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của Phong Trào:
    Ai làm gì, ai giữ trọng trách gì. Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của
    những ngòi bút chính thống được chỉ định đánh họ, in lại trong cuốn Bọn Nhân Văn-
    Giai Phẩm trước tòa án dư luận (1959) và một số bài in trên các báo chính thức trong
    thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã sưu tầm và công bố, chúng ta có thể nhìn ra nhiều
    khía cạnh của sự thật hơn.
    Bọn Nhân Văn-Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận
    Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn-Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận do nhà
    xuất bản Sự Thật (nay là nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6 năm 1959, tại
    Hà Nội, là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên
    án, buộc tội Nhân Văn-Giai Phẩm. Trong phần cuối cuốn sách, có một chương nhỏ,
    trích ‘’những lời thú tội’’ của các thành viên Nhân Văn-Giai Phẩm, còn hầu như toàn
    thể dành cho phía công tố ‘’phát hiện tội’’, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó
    thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là ‘’trí thức
    văn nghệ sĩ’’ đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia Nhân Văn-
    Giai Phẩm.
    Tập tài liệu dày 370 trang này (chứng tích một thời mà chữ nghĩa đã đạt tới
    đỉnh cao của sự bồi bút) còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều
    khía cạnh của vấn đề Nhân Văn-Giai Phẩm: Về tầm vóc của Phong Trào, về không
    khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà Nhà Thơ Lê
    Đạt đã mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời nó cũng gián
    tiếp trả lời những lập luận gần đây, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của Phong
    Trào Nhân Văn-Giai Phẩm thành một cuộc ‘’đánh đấm nội bộ’’, tranh giành thế lực cá
    nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
    4 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Những bài luận tội có tính cách hạ nhục Nhân Văn-Giai Phẩm của 83 Văn
    Nghệ Sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành
    trung ương đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn đình Thi, Phạm huy
    Thông, Trần hữu Tước, Đặng thai Mai, Nguyễn huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn
    văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng trung Thông, Hồ đắc Di, Vũ đức Phúc, Quang Đạm,
    Bàng sĩ Nguyên, Ngụy như Kontum, Hằng Phương, Lương xuân Nhị v.v .phản ảnh
    rất rõ nhân cách của người tố. Cho nên, có thể nói, qua những ‘’văn bản tố’’, các tác
    giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách
    sắp xếp thứ tự ‘’những tên đầu sỏ’’ mà chúng ta biết được thứ tự ‘’tội’’ nặng, ‘’tội’’
    nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.
    Những buổi phỏng vấn trên RFI
    Ngày 13.4.1999, trong dịp Nhà Thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi
    đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập
    đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện (thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học
    sử) tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về Phong Trào Nhân Văn-Giai
    Phẩm. Chúng tôi đề nghị nhà thơ nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố
    tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó được biết, ông không định viết hồi ký.
    Ngày 13.4.1999 tại Paris, nhà thơ Lê Đạt đã nói chuyện với RFI về Nhân Văn-
    Giai Phẩm
    Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm
    trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với nhà văn Hữu Mai trên Đài RFI, chúng tôi dự định
    làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm (nếu
    coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các Văn Nghệ Sĩ chủ trương
    Phong Trào) nên đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên
    Paris-Hà Nội, muốn làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp
    với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì chỉ nói được vài câu là đường
    dây bị nhiễu.
    Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt,
    chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu
    thanh ngày 13.4.1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính
    giả RFI sớm hơn dự tính.
    Đây là lần đầu tiên, một tài liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột
    trụ trong Nhân Văn-Giai Phẩm được công bố.
    Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong
    Phong Trào, đó là cuộc phỏng vấn ngắn nhà chính trị và Văn Hóa Nguyễn Hữu
    Đang: Nhân dịp kỷ niệm ngày 2.9.1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt liên lạc với Nguyễn
    Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ chức ngày lễ độc lập. Buổi nói chuyện này thu
    thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30.8.1995 và được phát thanh trên Đài RFI
    ngày 10.9.1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm
    được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: Chỉ nói được
    vài câu là đường dây bị nhiễu.
    Những thính giả của RFI đã từng nghe những chương trình này, đều lưu ý
    thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà
    Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc trò chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris.
    Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên Phong Trào
    Nhân Văn-Giai Phẩm cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi
    cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau,
    nhưng sự trả lời gần như tương tự.
    Sau cùng là nhân chứng của Trần Duy. Họa Sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng
    tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình phát thanh trên Đài
    5 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    RFI về Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm, có những điều ông muốn nói, dưới nhãn
    quan của riêng ông, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6.2008, Họa Sĩ Trần Duy
    quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội,
    không bị trở ngại gì. Và như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu
    Thư Ký Tòa Soạn báo Nhân Văn.
    Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988
    đến ngày nay, còn có những thiếu sót, đôi khi sai lầm, thì, những chứng nhân quan
    trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ
    sung. Các ông thay mặt những người đã khuất viết lại lịch sử của Phong Trào và lần
    này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
    Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn
    đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu
    có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự
    thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về Phong Trào Nhân Văn-
    Giai Phẩm.
    Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của Phong Trào Nhân Văn-Giai
    Phẩm, phát thanh trên trên RFI, từ năm 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang
    (10.9.1995), Hoàng Cầm (21.2.1998 đến 10.1.2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24.3.2004 đến
    5.6.2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26.6.2008 đến 26.7.2008, 4 kỳ), đã cung cấp cho chúng
    ta những tài liệu trực tiếp về Nhân Văn-Giai Phẩm, do những người trong cuộc nói
    ra.
    Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13.4.1999, khi ông
    sang Pháp lần thứ nhì, và phát thanh từ tháng 3 đến tháng 6.2004 trên Đài RFI), cho
    đến nay, là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử Phong Trào Nhân
    Văn-Giai Phẩm. Lê Đạt mất ngày 21.4.2008 tại Hà Nội.
    Những năm gần đây trang báo điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên,
    đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ báo Nhân Văn-Giai Phẩm.
    Lại Nguyên Ân đang sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập
    niên 60, liên quan đến Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm và đưa dần lên Internet.
    Những tài liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về Nhân Văn-Giai Phẩm, giúp
    các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh Phong Trào
    tranh đấu cho tự do dân chủ của Văn Nghệ Sĩ trí thức, lớn lao nhất trong Lịch Sử
    Văn Học Việt Nam.
    Từ tháng 4.1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn-Giai Phẩm
    đến nay đã hơn hai mươi năm.
    Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài,
    nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự
    xẩy ra.
    Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp
    được, những câu hỏi chưa được trả lời về biết bao nhiêu sự kiện lịch sử khác nhau,
    về những con người như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan
    Khôi, Thụy An, Trương Tửu .và còn bao nhiêu người khác nữa. Những gì chúng ta
    góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt
    được vài ba dòng nhật ký của người này, hồi ký của người kia, cũng chỉ là một phần
    rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho
    đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông
    hành đi vào vĩnh cửu.
    Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khi tìm và lựa thông tin,
    những gì là thật, là giả trong những tài liệu mà mình có được. Tìm tài liệu không khó
    6 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tài liệu để dựng lại sự thật là một việc
    khác hẳn.
    Làm sao biết được về hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi theo Việt Minh
    ? Lê Đạt đã từng theo Việt Nam Quốc Dân Đảng ?
    Theo Văn Cao thì Phạm Duy là người đầu tiên đã dẫn ông liên lạc với Việt
    Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca, là người
    ‘’cướp’’ micro trước cửa Nhà Hát Lớn ngày 17.8.1945 để hát bài Tiến Quân Ca lần
    đầu tiên trước công chúng. Khi in lại đoạn hồi ký của Văn Cao về bài Tiến Quân Ca,
    người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn
    đình Thi. Một mặt khác, ngay chính bản thân Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của
    bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể
    viết ra trên văn bản.
    Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An ? Về ‘’mối tình đầu’’ của Thụy An
    với Võ nguyên Giáp ? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân
    Quốc Dân Đảng ? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào
    Nam ?
    Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, nhưng ngày nay, những người
    muốn biết sự thật, phải có quyền được biết, đặc biệt là những nhà nghiên cứu về
    thời kỳ lịch sử này.
    Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động
    đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản như hai với hai là bốn: Theo
    bên này là yêu nước, theo bên kia là bán nước. Mà bất cứ cá nhân nào dù là văn
    nghệ sĩ, trí thức hay hoạt động chính trị cũng có thể theo hai ba con đường khác
    nhau, trong suốt hành trình sống của mình.
    Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng
    phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, Văn Hóa khác nhau giữa những đảng
    phái như Việt Minh, Quốc Dân Đảng, Đệ Tứ, trong mối tương giao không xé ra được.
    Những người đã từng tham gia các tổ chức khác nhau ấy, đã phải chối bỏ lẫn
    nhau hoặc không dám nói đến toàn bộ hành trình của họ, khi theo bên này, lúc ở bên
    kia, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
    Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của toàn thể dân tộc.
    PHẦN II
    NGUYÊN NHÂN PHÁT XUẤT
    Mặc dù bắt nguồn từ quân đội, nhưng không tìm thấy văn bản nào của ba
    tướng lãnh Lê quang Đạo, Trần Độ và Lê Liêm trong tổng cục chính trị lên án Phong
    Trào. Trong vụ thanh trừng Nhân Văn-Giai Phẩm, quân đội đứng ngoài. Quân đội
    sạch tay hơn dân sự. Nhân Văn-Giai Phẩm mở đầu cho tinh thần đấu tranh cho tự
    do tư tưởng, cho công cuộc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi
    Phong Trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm
    1987- 1988, với vai trò chủ đạo của Trần Độ.
    Với những tài liệu và nhân chứng hiện hành, chúng ta có thể tóm tắt lịch trình
    hoạt động của Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm, theo thứ tự ngày tháng, như sau:
    Tháng 3.1955: Trong quân đội, Trần Dần, Tử Phác, với sự cộng tác của
    Hoàng Cầm, Lê Đạt, chủ trương việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
    Tháng 4.1955: Nhóm Trần Dần, Tử Phác ký ‘’Dự thảo đề nghị cho một chính
    sách Văn Hóa’’, chủ yếu đòi quyền tự do sáng tác. Bác bỏ chế độ chính trị viên trong
    văn nghệ quân đội.
    7 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Từ 13.6.55 đến 14.9.55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt, bị phạt cấm trại trong trại 3
    tháng vì lý do phạm quân kỷ, sau đó được đưa đi cải tạo ở Yên Viên (tham gia Cải
    Cách Ruộng Đất đợt 5).
    Tháng1.1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương
    (có bàn với Trần Dần) với những bài chính: Nhất Định Thắng của Trần Dần, Anh Có
    Nghe Thấy Không của Văn Cao, Làm Thơ và Mới của Lê Đạt .
    Tháng 2.56 (Tết Nguyên Đán): Lê Đạt bị gọi lên Tuyên huấn để kiểm thảo.
    Trần Dần, Tử Phác bị bắt lần thứ nhì. Giai Phẩm Mùa Thu bị tịch thu. Trần Dần dùng
    dao cạo cứa cổ. Chiến dịch đánh Trần Dần bắt đầu với bài của Hoài Thanh ‘’Vạch
    trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần’’ trên báo Văn
    Nghệ số 110, ra ngày 7.3.56.
    Ngày 24.2.1956: Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại Đại Hội XX
    của đảng cộng sản Liên Xô. Ngày 26.5.1956: Mao Trạch Đông phát động Phong
    Trào ‘’Trăm Hoa Đua Nở Trăm Nhà Đua Tiếng’’. Ngày 28.6.1956: Ba Lan nổi dậy.
    Theo chính sách của Liên Xô và Trung Quốc, đảng lao động nới rộng tự do:
    Tháng 8.56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập dân chủ 18
    ngày.
    Ngày 26.8.1956: Nguyễn Hữu Đang đọc tham luận tổng kết lớp học 18 ngày
    của Hội Văn Nghệ, chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của trung ương
    đảng. Tố Hữu, Nguyễn đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải ‘’thừa nhận
    những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa’’. Hoài Thanh viết bài nhận lỗi
    đánh Trần Dần.
    Ngày 29.8.56: Giai Phẩm Mùa Thu, Tập I ra đời, với những bài chủ chốt: Phê
    Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi, Tỉnh Giấc Chiêm Bao của Nguyễn Bính,
    Tiếng Sáo Tiền Kiếp của Trần Duy .
    Ngày 20.9.1956: Nhân Văn số 1, với bài Phỏng Vấn Nguyễn Mạnh Tường Về
    Vấn Đề Mở Rộng Tự Do Và Dân Chủ, bài thơ Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử
    của Lê Đạt, bài Con Người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần
    Dần với vết sẹo ở cổ, bài Chống Bè Phái Trong Văn Nghệ của Lê Đạt (ký tên Trần
    Công) .
    Ngày 30.9.1956: Nhân Văn số 2, với bài Phỏng Vấn Đào Duy Anh Về Mở
    Rộng Tự Do Và Dân Chủ, bài Trả Lời Nguyễn Chương Và Báo Nhân Dân của
    Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn Đấu Cho
    Trăm Hoa Đua Nở của Trần Duy .
    Ngày 30.9.56: Giai Phẩm Mùa Thu, Tập II, với bài Bệnh Sùng Bái Cá Nhân
    của Trương Tửu, Ông Bình Vôi của Phan Khôi, Những Người Khổng Lồ của Trần
    Duy, Chống Tham Ô Lãng Phí của Phùng Quán .
    Ngày 8.10.1956: Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản.
    Ngày 15.10.56: Nhân Văn số 3, Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế
    13.10.1939, và các bài Nỗ Lực Phát Triển Tự Do Dân Chủ của Trần Đức Thảo,
    Phỏng Vấn Bác Sĩ Đặng Văn Ngữ Về Mở Rộng Tự Do và Dân Chủ .
    Ngày 30.10.56: Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn ‘’Qua Những
    Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo’’ tại mặt trận tổ
    quốc, Hà Nội.
    Ngày 30.10.1956: Giai Phẩm Mùa Thu, Tập III, với bài Văn Nghệ Và Chính Trị
    của Trương Tửu, Muốn Phát Triển Học Thuật của Đào Duy Anh .
    Ngày 5.11.56: Nhân Văn số 4, với bài Cần Phải Chính Quy Hơn nữa của
    Nguyễn Hữu Đang, Sự Thật Về Vụ Xúc Phạm Thi Sĩ Nguyễn Bính và Báo Trăm Hoa
    của Người Quan Sát, Thành Thật Đấu Tranh Cho Dân Chủ của Trần Duy, Con Ngựa
    8 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Già Của Chúa Trịnh của Phùng Cung, Những Ngày Báo Hiệu Mùa Xuân của Văn
    Cao .
    Ngày 10.11.56: Đất Mới, báo sinh viên, với bài Phê Bình Lãnh Đạo Sinh Viên
    của Q. Ngọc và T. Hồng, Lịch Sử Một Câu Chuyện Tình của Bùi Quang Đoài .
    Ngày 20.11.56: Nhân Văn số 5, với bài Hiến Pháp Việt Nam năm 1946 và
    Hiến Pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào ? của Nguyễn Hữu Đang, Bài
    học Ba Lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát) .
    Tháng 12.56: Giai Phẩm Mùa Đông, Tập I, với bài Tự Do Tư Tưởng Của Văn
    Nghệ Sĩ Và Sự Lãnh Đạo Của Đảng Cộng Sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội
    Dung Xã Hội Và Hình Thức Tự Do của Trần Đức Thảo .
    Ngày 09.12.1956: Hồ chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.
    Ngày 15.12.56: Nhân Văn số 6 đang in, bị đình chỉ.
    Cuối tháng 12.56: Tự Do Diễn Đàn, tập một, tạp chí chuyên về Lý Luận, Phê
    Bình, Sáng Tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12, bị cấm.
    Tự Do Diễn Đàn gồm có các bài: Qua sai lầm của Cải Cách Ruộng Đất, Xây
    Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo của Nguyễn Mạnh Tường, truyện ngắn Chú Bé Làm
    Văn của Trần Dần. Tại Sao Quần Chúng Nhân Dân Tha Thiết Đến Cuộc Đấu Tranh
    Văn Nghệ ? của Nguyễn Hữu Đang. Nhiệm Vụ Của Văn Học Không Phải Là Giải
    Thích Chính Sách của Phan Ngọc. Động Long Mạch của Lê Đạt. Vài Ý Nghĩ Sau Khi
    Đọc Bài Thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm. Sinh Hoạt Văn Hóa của Trương
    Tửu-Trần Đức Thảo [theo tài liệu của Boudarel, trong bài Le tort de parler trop tot
    (Sai lầm vì nói quá sớm) viết về Nguyễn Mạnh Tường, Revue Sud Est Asie, số 52].
    Từ 20 đến 28.2.57: Đại hội văn nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi
    đấu tranh ‘’đập nát bọn Nhân Văn-Giai Phẩm’’.
    Cuối năm 57: Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà xuân
    Trường được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc.
    Tháng 2 và 3.58: Khi họ trở về, đảng thi hành chính sách ‘’triệt hạ nọc độc
    Nhân Văn’’, tổ chức hai lớp đấu tranh ở Thái Hà Ấp.
    Ngày 4.6.58: ‘’Trận chiến đấu chống bọn phá hoại Nhân Văn-Giai Phẩm’’ kết
    thúc bằng đại hội văn nghệ III, tại Hà Nội với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, Nghị
    quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án ‘’bọn Nhân Văn-Giai Phẩm’’, và các hội văn nghệ
    thi hành các biện pháp kỷ luật.
    Chớm Nở Từ Đòi Hỏi Quyền Tự Do Sáng Tác
    Nhìn lại lịch trình trên đây, chúng ta thấy ngay sự xác định trước đây của
    Hoàng Văn Chí trong Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc và của Boudarel trong Trăm
    Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam về nguyên nhân phát xuất Nhân Văn-Giai Phẩm
    từ Trăm Hoa Đua Nở ở Trung Quốc là sai, vì Phong Trào ở Việt Nam, chớm nở từ
    việc đòi hỏi tự do sáng tác (tháng 4.55) trong quân đội, và chính thức bắt đầu với
    Giai Phẩm Mùa Xuân (tháng 1.56), trong khi đến tháng 5.56 Mao Trạch Đông mới
    phát động Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở.
    Nhưng nhờ đảng lao động học tập chính sách của Mao Trạch Đông và Liên
    Xô, mới có việc nới rộng tự do văn nghệ ở Việt Nam, mới tổ chức lớp học tập dân
    chủ 18 ngày, và Nguyễn Hữu Đang mới có cơ hội trở lại văn trường và chính trường,
    giữ vai trò lãnh đạo Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm.
    Tác phẩm của Boudarel đặt trọng tâm vào Trần Dần và bi kịch Trần Dần, theo
    ông Trần Dần chịu ảnh hưởng tư tưởng phản kháng của Hồ Phong trong chuyến đi
    Trung Hoa tháng 7 năm 1954 (để viết bản dẩn giải cho phim Điện Biên Phủ). Thậm
    chí Boudarel còn cho rằng hai chữ Nhân Văn lấy từ câu một của Hồ Phong: ‘’Hiện
    thực xã hội theo quan niệm của tôi phải quay về với con người .về sự giải phóng
    9 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    con người .về tinh thần Nhân Văn’’ (Trăm Hoa Đua Nở Trên Đêm Việt Nam,
    Boudarel, trang 59). Trong nhận xét này, ông đã lầm trên một số điểm:
    - Tờ Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang chủ trương, khi ấy Trần Dần đã mệt
    mỏi, lui vào mặt sau vì chuyện tù tội, vợ con, gia đình.
    - Tên Nhân Văn là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt ra. Lê Đạt nói:
    ‘’Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói
    Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào’’. Và Hoàng
    Cầm, trong lần phỏng vấn năm 2007, nhận rằng ông đã nghĩ ra tên Nhân Văn,
    nhưng trong lời ‘’Thú Nhận’’, năm 1958, Hoàng Cầm viết: ‘’Một lần nữa, có Nguyễn
    Bính, Đang, Tước [Bác Sĩ Trần Hữu Tước?], bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính
    làm Thư Ký Tòa Soạn, thì tôi nghĩ là ‘’tên báo gì gì cũng được’’ miễn là có báo ra
    được’’. (Những Lời Thú Nhận Của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5.58)
    - Dù Trần Dần ‘’Thú Nhận’’ rằng sự chống đối của mình ‘’có màu sắc tư tưởng
    Hồ Phong’’, cũng chỉ là một lối nói, bởi những thành viên chính của Phong Trào
    Nhân Văn-Giai Phẩm hầu hết đều chịu ảnh hưởng Văn Hóa Pháp, không mấy người
    biết Hán Văn để đọc Hồ Phong.
    Tóm lại về nguyên nhân phát xuất Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm, với
    những tài liệu hiện hành, chúng ta có thể xác định: Mọi sự bắt nguồn từ quân đội,
    những người đầu xướng là Trần Dần, Tử Phác, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê
    Đạt trong hai vụ việc: Phê Bình Tập Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu và Bản ‘’Dự Thảo Đề
    Nghị Cho Một Chính Sách Văn Hóa’’.
    Vụ Phê Bình Tập Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
    Gần một năm sau hiệp định Genève, ở miền Bắc, trong quân đội, nổi lên
    Phong Trào đòi đổi mới văn học và tranh đấu cho tự do sáng tác do Trần Dần, Tử
    Phác chủ trương với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt và một số văn nghệ sĩ. Sự
    phản kháng chia làm hai đợt:
    - Tháng 3.1955, Trần Dần, Tử Phác cộng tác với Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức
    việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng
    Cầm, Lê Đạt.
    - Tháng 4.1955 Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh
    và Trúc Lâm ký bản ‘’Dự thảo đề nghị cho một chính sách Văn Hóa’’.
    Hai sự kiện này đi đôi và gắn bó với nhau. Trước kháng chiến, Trần Dần đã
    cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch (em Vũ Hoàng Chương) ra tạp chí Dạ Đài
    (16.11.1946), với bản tuyên ngôn tượng trưng. Trong kháng chiến, năm 1950 Trần
    Dần gặp Lê Đạt, cùng chí hướng đổi mới thi ca. Bước đầu của sự đổi mới là phải
    ‘’chôn đàn anh’’ (như lời Nguyên Sa, và hành động của nhóm Sáng Tạo, trong Nam,
    công kích Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn). Trong đám ‘’đàn anh’’ này, ở ngoài Bắc,
    Tố Hữu là khuôn mặt tiêu biểu.
    Nhân dịp tập thơ Việt Bắc vừa phát hành tháng 12.54, đã có bài ca tụng của
    Xuân Trường trên báo Nhân Dân (24.1.55) và một bài tràng giang đại hải tung hô hết
    mình của Xuân Diệu trên hai số Văn Nghệ 64 và 65 (tháng 2.55). [In lại trong ‘’Tài
    liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc’’, do Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn,
    nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2005]
    Ngày 4.3.55, Trần Dần và Tử Phác bèn đứng ra tổ chức một buổi phê bình
    (kiểu tọa đàm) thơ Tố Hữu trong khôn khổ văn nghệ quân đội, với sự hiện diện của
    Tướng Nguyễn chí Thanh, chủ nhiệm tổng cục chính trị. Lê Đạt, kể lại không khí hôm
    ấy như sau:
    ‘’Lúc đến, tôi đã thấy ông Nguyễn chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói
    về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ ‘’nhỏ’’ hơn thơ Tố Hữu thời trước, thì
    đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn thì tôi thấy không
    10 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    khí im lặng cả, không ai nói gì nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: ‘’Thôi, thế cậu lên đi’’.
    Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ chí
    Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói gì nữa.
    Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy thì anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí
    Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên trình bày với anh Tố Hữu vế
    tờ báo Văn Nghệ’’.(phỏng vấn Lê Đạt, RFI).
    Buổi tọa đàm, mới chỉ là nói miệng. Nhưng Lê Đạt muốn đưa lên tạp chí Văn
    Nghệ (Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt ở trong ban biên tập). Khi Lê Đạt lên gặp Tố
    Hữu (bàn về nội dung tờ báo), thì tình cờ Tố Hữu lại ‘’gợi ý’’ Lê Đạt nên viết bài phê
    bình tập thơ Việt Bắc (chắc ông chờ đợi một sự phê bình tâng bốc của đàn em).
    Lê Đạt, nhân đã có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, bèn tập hợp thêm một số
    bài khác, làm số báo đặc biệt về tập Việt Bắc. Chắc Tố Hữu không ngờ vụ việc lại
    xẩy ra trái hẳn ý mình, và như lời Lê Đạt: ‘’ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê
    anh Tố Hữu bao giờ’’.
    Việc phê bình rộng ra và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng
    (xem tài liệu của Lại Nguyên Ân). Nhưng Tố Hữu cũng không vừa: Hội văn nghệ tổ
    chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Trong số những bài
    ca tụng Việt Bắc chủ chốt có bài của Hoài Thanh, Nguyễn đình Thi và Hoàng trung
    Thông.
    Phía chê có ba người: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung
    dung: Vừa khen, vừa chê.
    Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa
    nắm vững hiện thực: ‘’Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước
    kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại
    để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn
    còn giả tạo công thức’’ (Tài liệu Lại Nguyên Ân, trang 69).
    Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu ‘’thiếu chất sống thực tế’’, ‘’nhạt nhẽo’’, ‘’hời hợt’’,
    chỉ ‘’lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn’’,
    ‘’những câu văn đèm đẹp’’, ‘’rủ rỉ một lát rồi thôi’’, ‘’chỉ thấy những hình ảnh chung
    chung, gặp bất cứ ở chỗ nào’’, khi ca tụng lãnh đạo thì ‘’đao to búa lớn’’, bài ‘’Hoan
    hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa.
    Loãng quá’’ .
    Lê Đạt, trong bài lý luận, cho rằng Tố Hữu ‘’cố gắng đi tới công nông’’ nhưng
    trong thơ còn rơi rớt tính chất ‘’ngậm ngùi, buồn buồn .nó là cơ sở điệu tâm hồn của
    Tố Hữu’’ . Lê Đạt tổng kết ý kiến của mình và các bạn trong câu: ‘’Tính chất tiểu tư
    sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố
    Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập
    thơ’’ (theo tài liệu Lại Nguyên Ân).
    Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật ký ‘’Tố Hữu nhìn sự vật
    nó chính trị quá công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì lại là lắp lại Nguyễn
    Du, Tản Đà, ca dao .Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì’’ (Trần Dần ghi
    trang 143). Và trong buổi tọa đàm ngày 4.3.55, theo Vũ tú Nam mách lại, Trần Dần
    gọi thơ Tố Hữu là ‘’tí ti la haine, tí ti l'amour’’ (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) (Sự Thực Về
    Con Người Trần Dần, Vũ tú Nam, quân đội nhân dân tháng 4.58).
    Tất nhiên Tố Hữu không thể nào ‘’bỏ qua’’ vụ này.
    Sang tháng sau, Trần Dần, Tử Phác lại tung ra một vụ mới, đó là bản dự thảo
    đề nghị một chính sách Văn Hóa trong quân đội.
    Bản Dự Thảo Đề Nghị Cho Một Chính Sách Văn Hóa
    11 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Tháng 4.1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh
    và Trúc Lâm ký bản ‘’Dự thảo đề nghị cho một chính sách Văn Hóa’’, nội dung yêu
    cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, đòi quyền tự do sáng tác.
    Theo Hoàng Cầm: ‘’Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp
    trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là
    hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị’’.
    Nhưng: ‘’Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn
    nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của
    đảng, bỗng có một câu quật lại: ‘’Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư
    tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các
    đồng chí !
    Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở
    một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì
    bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt
    đầu trở nên hoang mang’’.
    (Trích bài Con Người Trần Dần của Hoàng Cầm, Nhân Văn số 1).
    Hoàng Cầm không nói rõ những người ủng hộ kia là ai, và người ‘’thẩm quyền
    bác bỏ’’ kia là ai. Nhưng qua bài đánh Trần Dần của Vũ tú Nam trên văn nghệ quân
    đội, chúng ta có thể tóm tắt tình hình như sau: Cuối năm 54, đầu 55, phòng văn nghệ
    quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính sách văn nghệ với sự có
    mặt của Tướng Nguyễn chí Thanh. Trong buổi đó, Trần Dần đã nêu lên ba đòi hỏi
    chính, Vũ tú Nam viết:
    1- Trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
    2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc hội văn nghê,
    không qua cục tuyên huấn và tổng cục chính trị.
    3- Bỏ mọi ‘’chế độ quân sự hiện hành’’ trong văn nghệ quân đội .
    Nghe xong đồng chí Nguyễn chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là
    quan điểm tư sản, phi đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ,
    còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng
    lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ’’. (Vũ tú Nam, Sự Thực Về
    Con Người Trần Dần, văn nghệ quân đội, số 4, tháng 4.58).
    Tuy vậy, Trần Dần vẫn được giao cho việc tổ chức hội nghị ngành văn toàn
    quân tháng 4.55. Lần này, Trần Dần trình bày bản dự thảo do chính tay mình viết
    tháng 2.55, dài 12 trang đánh máy. Theo vài câu trích dẫn của Vũ tú Nam (để buộc
    tội quan điểm ‘’xét lại’’ của Trần Dần) Trần Dần viết:
    ‘’Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung
    thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm .tôn trọng,
    trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp
    làm việc của người viết’’
    ‘’ . Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào .Nếu như sự thực
    ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực
    vào chính sách’’
    Tổng hợp thông tin của Hoàng Cầm và Vũ tú Nam, chúng ta thấy: Tướng
    Nguyễn chí Thanh vừa bật đèn xanh cho Trần Dần và các bạn đòi hỏi tự do sáng tác
    (viết sự thật) vừa dập tắt bản dự thảo đòi tự do sáng tác. Nhưng ngoài Nguyễn chí
    Thanh, bản dự thảo còn được những ai ủng hộ, khiến nó sắp được thông qua, như
    lời Hoàng Cầm ?
    Theo phân tích của Boudarel, thì bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba
    tướng tá cao cấp trong tổng cục chính trị: Lê quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê
    Liêm. Ông viết:
    12 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    ‘’Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ
    cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ
    rõ tên họ ra, rất có thể bởi vì muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước
    những đồng nghiệp quyết liệt. Duy có hai người, hai Tướng chính ủy Trần Độ và Lê
    Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó.
    Một văn bản chứng minh rằng vào mùa Thu năm 1956, Tướng Lê quang Đạo
    cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào ? Lúc đó ông là
    trưởng phòng tuyên huấn’’ (trích Trăm Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam, trang 101).
    Boudarel phác họa chân dung Lê quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng
    lãnh trong tổng cục chính trị ủng hộ những nhà văn trẻ, ông phân tích những khúc
    mắc trên con đường của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải
    lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong suốt thời kỳ Nhân
    Văn-Giai Phẩm, ông không tìm thấy văn bản nào của các tướng lãnh trong tổng cục
    chính trị lên án Phong Trào.
    Cuốn Bọn Nhân Văn-Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận tập hợp những bài
    viết của hơn 80 Văn Nghệ Sĩ và Trí Thức ‘’dân sự’’ tuyệt nhiên không có bài viết nào
    của quân đội, kể cả Nguyễn chí Thanh, mặc dầu Phong Trào phát xuất từ quân đội.
    Với mức tài liệu hiện có, chúng ta có thể hiểu rằng: Trong vụ thanh trừng
    Nhân Văn-Giai Phẩm, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.
    Tướng Lê Liêm, một trong những người có công lớn trong trận Điện Biên Phủ,
    hết sức ủng hộ Văn Nghệ Sĩ, Lê Liêm không viết một dòng nào chống lại những
    người đòi tự do sáng tạo, một sự im lặng này đầy ý nghĩa. Năm 1958, ông trở thành
    Thứ Trưởng Văn Hóa, tuy được thăng chức, nhưng không có quyền, bước đầu của
    sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga, năm 1965, ông nhận chức Thứ
    Trưởng Giáo Dục, và trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, năm 1968, ông
    trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng
    cùng với Ưng văn Khiêm, Tướng Nguyễn văn Vinh và Bùi công Trừng, vì tội thân
    Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại mà ít người biết đến.
    Tướng Lê quang Đạo, với trách nhiệm trưởng phòng tuyên huấn, chắc chắn
    đã tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này. Sau vụ
    Nhân Văn, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại
    hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến năm 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông
    tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.
    Trần Độ kiên trì trong quan điểm dân chủ hóa đất nước. Sau Nhân Văn, ông
    trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh
    hơn, ba mươi năm sau.
    Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà xuân Trường trong đại hội V, Trần
    Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm trưởng ban văn hóa tư tưởng trung
    ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn văn Linh, Trần Độ trở lại vai trò chủ đạo cho
    công cuộc đổi mới văn học. Nói như Boudarel: ‘’tất cả những vấn đề cơ bản đều quy
    về những năm 1955-1956’’.
    Như vậy Nhân Văn-Giai Phẩm, mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư
    tưởng, cho công cuộc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi Phong
    Trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987-
    1988.
    Vai trò của Tướng Nguyễn chí Thanh khá phức tạp. Cầm đầu chính trị quân
    đội, ông cũng là người đã ‘’dẹp’’ vụ dự thảo ngay còn trong trứng nước. Nhưng khi
    Trần Dần bị bắt lần thứ nhì, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, Trần
    Dần viết thư cho Nguyễn chí Thanh, ông đã can thiệp để ‘’cứu’’ Trần Dần. Nhưng
    cũng chính Tướng Nguyễn chí Thanh đã trao cho người bà con Vũ tú Nam toàn bộ
    13 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    tài liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ
    Vũ có đủ tài liệu viết bài đánh Trần Dần (Trăm Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam,
    Boudarel, trang 100 và 126).
    Nhưng cũng không thể liệt Nguyễn chí Thanh vào loại người xoay chiều, như
    Đỗ Nhuận, bạn thân của Trần Dần, cùng đi Điện Biên Phủ, cùng đi Trung Quốc,
    cùng ký bản dự thảo, nhưng sau này quay lại viết bài đánh Trần Dần.
    Nhân Vật Trần Dần
    Vì hai sự kiện: Phê Bình Thơ Tố Hữu và Đề nghị cải cách chính sách văn
    nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13.6.55 đến 14.9.55.
    Nhưng về mặt chính thức, Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: Về chuyện tình cảm,
    yêu một người con gái có Đạo (Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này) cha mẹ đã đi Nam,
    không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở Phố Sinh Từ và
    không chịu lên trình diện (Tử Phác cũng không chịu lên trình diện). Hoàng Văn Chí
    thu thập được khá nhiều tin tức và tổng hợp với bài Con Người Trần Dần của Hoàng
    Cầm, đã viết khá chi tiết về việc này từ năm 1959. Nhưng sự phân tích của Boudarel
    có những điểm thỏa đáng hơn:
    ‘’Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự
    tranh đấu không cân bằng trong cục chính ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị
    và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là
    một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi chạy
    sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi
    trại nhà binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở
    Phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng
    mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những
    quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc
    trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5.1955,
    Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một
    cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn,
    nếu không muốn nói ngây thơ lạ lùng’’ (Trăm Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam,
    Boudarel, trang 125-126).
    Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra là bị cấm trại, không
    phải bị tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài Nhất Định Thắng trao bản
    thảo cho Lê Đạt giữ (Hoàng Cầm, Con Người Trần Dần). Hết ba tháng cấm trại, Trần
    Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai được gửi đi tham gia Cải
    Cách Ruộng Đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, từ 2.11.1955 đến tháng 2.1956. Trong khi
    ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt chuẩn bị ra tờ Giai Phẩm Mùa Xuân.
    Tháng Giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, đăng bài thơ Nhất Định
    Thắng của Trần Dần. Bài thơ đã gây tai họa cho Trần Dần và tờ Giai Phẩm. Báo vừa
    phát hành, Lê Đạt bị gọi lên tuyên huấn để kiểm thảo. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch
    thu. Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa
    vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho Tướng Nguyễn chí Thanh ngày 21.2.56 và
    được tha ngày 5.5.56 (Trăm Hoa Đua Nở Trong Đêm Việt Nam, Boudarel, trang 46).
    Hoàng Cầm viết: ‘’Giai Phẩm Mùa Xuân bị kết tội, bài thơ ‘’Nhất Định Thắng’’
    bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích
    (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù: Trần Dần, Tử Phác đều
    bị tống giam’’.
    ‘’Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt
    đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai Phẩm. Một không khí ngạt
    thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ
    14 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    ‘’Nhất Định Thắng’’ bị đem ra luận tội’’. (Con Người Trần Dần, Hoàng Cầm, Nhân
    Văn số 1)
    Hoàng Cầm trong lời ‘’Thú Nhận’’, kể rằng ông muốn làm ‘’cho cả cụ Hồ, cả
    Trung ương cũng phải thương xót cảnh ngộ Trần Dần, mà trừng trị người nào đã gây
    ra cảnh ngộ đó’’. Nhưng sau khi bài báo xuất hiện, Nguyễn chí Thanh giao cho Lê
    quang Đạo mời Hoàng Cầm đến để giải thích, vẫn theo lời ‘’Thú Nhận’’ của Hoàng
    Cầm:
    ‘’Khi đồng chí Lê quang Đạo có mời tôi vào giải thích rõ trường hợp Trần Dần,
    tôi đã nhụt đi, có ý muốn cải chính bài báo, tôi về viết bài cải chính, có nói rõ sự giáo
    dục của quân đội với Trần Dần, sự săn sóc của đồng chí Nguyễn chí Thanh và của
    phòng văn nghệ quân đội đối với Trần Dần, nhưng trong ý nghĩ vẫn không chịu nhận
    rằng mình đã xuyên tạc bóp méo sự thật, không chịu nhận rằng mình bôi đen chế độ,
    nên vẫn viết thêm một đoạn cuối nói rằng: Việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi
    Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý: Đồng chí Tố Hữu là người phụ
    trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về viêc này. Thế là
    cải chính một nửa, để lại bôi xấu một nửa. Bài đó (không đăng) chỉ là một hành vi
    không thành thật’’ (Những lời Thú Nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng
    5.58).
    Về phía đối diện, đây là lời buộc tội của Tố Hữu:
    ‘’Cuộc tấn công vào chế độ ta và đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ
    đầu năm 1955, ngay khi hòa bình vừa lập lại.
    Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương
    Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở Trường Đại Học, thì bọn Nguyễn
    Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ
    cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản đảng trong phòng văn nghệ
    quân đội, đã kết thành một bè phái chống đảng trong Văn Nghệ.
    Như lời Thú Nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ
    Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn
    nghệ của đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và
    để đề xướng cái ‘’điệu tâm hồn’’ ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa
    cho lối sống tự do sa đọa.
    Đương nhiên cái ‘’điệu tâm hồn’’ ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hòa
    được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hòa được với ‘’tiếng
    sáo tiền kiếp’’ lóc gân của tên mật thám Trần Duy.
    Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác (những đứa con hư hỏng của Hà Nội cũ)
    nay lại trở về với ‘’cảnh cũ người xưa’’ bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội ‘’nghẹt
    thở’’, chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong
    quân đội cách mạng chỉ còn là ‘’những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra’’. Được
    tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên ‘’tiếng trống
    tương lai’’ chửi cán bộ chính trị là ‘’người bệnh’’, ‘’người ròi’’, ‘’người ụ’’. Cùng Tử
    Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh ‘’buộc lãnh
    đạo thực hiện mọi yêu cầu’’ của họ.
    Họ đòi thực hiện những gì ? ‘’Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
    Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ
    quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi hội
    văn nghệ trực thuộc hội văn nghệ, không qua cục tuyên huấn và tổng cục chính trị’’.
    Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ’’
    (Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm ‘’Nhân Văn-Giai Phẩm’’,
    Bọn Nhân Văn-Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận, nhà xuất bản Sự Thật, Hà
    Nội 1959, trang 22-24).
    15 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Việc Trần Dần Dùng Dao Cạo Cứa Cổ
    Về việc Trần Dần cứa cổ, cho đến nay, chỉ có Hoàng Cầm kể lại: Trong bài cải
    chính (không in) mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên và trong buổi nói chuyện trên RFI,
    ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời
    kể của Hoàng Cầm về việc này có nhiều chi tiết rõ ràng hơn:
    Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần:
    Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai Phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần,
    Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ
    chức Bộ Văn Hóa), Chế lan Viên .Tố Hữu cầm cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi
    người: ‘’Các anh thấy tập sách này thế nào ?’’
    Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế lan Viên nhanh trí,
    đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: ‘’Cuốn sách đại phản động!’’
    Tố Hữu hỏi Văn Phác: ‘’Hiện nay chúng nó đang ở đâu ?’’ Văn Phác: ‘’Thưa,
    các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên’’
    Tố Hữu lệnh Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: ‘’Gọi nó về, bắt lấy nó!’’
    Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.
    Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy, có một cái
    xe ô tô nhà binh đến Yên Viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần
    Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.
    Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng
    nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội. Nhưng xe lại
    chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt
    Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất vì cứ thấy xuống nhiều
    bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn
    hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết
    được ? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.
    Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc
    hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.
    Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái
    phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi
    trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi
    dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác
    nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu
    ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện
    gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen
    bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến tổng cục chính trị nơi anh công tác. Nguyễn chí
    Thanh lập tức đến bệnh viện và lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.
    Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm
    cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang
    Pháp in). Ông nói: ‘’Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết’’ (Hết hạn tù, người ta cho
    ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy
    tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi ! Khai thật đi ! Khai thật rồi về
    với vợ con !
    Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng
    Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng
    hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa’’ (trích Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in).
    Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Trần Dần, Tử Phác bị bắt, Lê Đạt bị kiểm
    thảo. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một Phong Trào đấu
    tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau. Vậy nội dung Giai Phẩm Mùa Xuân
    có những gì ? Điều này cần đến một sự phân tích văn bản.
    16 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    PHẦN III
    GIAI PHẨM MÙA XUÂN
    Trong Giai Phẩm Mùa Xuân bài thơ quyết liệt nhất, hỏi tội bọn nịnh thần, là
    của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao, tác giả quốc ca. Tất cả mũi dùi
    đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Chính vì vụ đánh Trần Dần,
    Lê Đạt mà Phan Khôi trở lại vai ‘’ngự sử văn đàn’’ với bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn
    Nghệ và các nhà trí thức khác tích cực tham gia Phong Trào.
    Tổ Chức Giai Phẩm Mùa Xuân
    Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương. Trần Dần có
    tham dự vào việc tổ chức ra báo và bài vở không ?
    Hoàng Cầm trong bài Con Người Trần Dần, in trên Nhân Văn số 1 (8.1956) và
    cả đến sau này, trong bài phỏng vấn trên RFI, đều xác định là Trần Dần không biết
    gì về việc in bài thơ Nhất Định Thắng vì lúc đó đang tham gia Cải Cách Ruộng Đ ất ở
    xa. Có lẽ là để gỡ tội cho Trần Dần.
    Nhưng sự thực thì Trần Dần có tham gia vào việc ra Giai Phẩm Mùa Xuân :
    Sau khi bị bắt lần thứ nhất, bị cấm trại 3 tháng cùng với Tử Phác [vì ‘’phạm kỷ luật
    quân đội’’ nhưng trên thực tế vì tổ chức phê bình thơ Tố Hữu và viết bản dự thảo đòi
    tự do sáng tác], Trần Dần, Tử Phác được gửi đi tham quan Cải Cách Ruộng Đất.
    Trong lời ‘’thú tội’’, Trần Dần viết về thời điểm này như sau:
    ‘’Sau thời gian đó, trên có cho tôi đi tham quan Cải Cách Ruộng Đ ất để tự cải
    tạo. Song, tôi lại dựa vào cái thế tham quan, cứ đi lại Hà Nội, tiếp tục quan hệ với
    một người vợ chưa được phép. Hơn nữa lại quan hệ với Hoàng Cầm, Lê Đạt, ra Giai
    Phẩm Mùa Xuân. Tuy là họ đề ra, song sau khi thống nhất trước với nhau là: ‘’Tự do
    lấy bài tôi đưa vào’’, thì tôi hoàn toàn đồng tình. Mỗi lần gặp lại thúc đẩy, dục dã, ra
    cho nhanh. Việc tập hợp bài vở, tôi không rõ chi tiết. Bài Lão Rồng là do tôi viết. Tôi
    ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng’’. (Trần Dần, Những
    Lời Thú Nhận Bước Đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5.1958, trang 60).
    Phía Lê Đạt, ông xác định việc chủ trương và tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân
    như sau:
    ‘’Trần Dần ra rồi, chúng tôi mới nghĩ đến chuyện này: Bây giờ làm sao mà in
    được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ, nguyên tắc bấy giờ là tất cả các bài
    đều bị kiểm duyệt. Tôi chủ trương tập này phải là một tập tự do sáng tác hoàn toàn,
    tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt gì
    cả. Tôi có bàn với Dần, Cầm, với Văn Cao, Tử Phác và mấy anh hội họa nữa là Sỹ
    Ngọc và Nguyễn Sáng. Lúc đó thì chưa tìm được chữ gì hay lắm. Tôi cũng không
    thích chữ Giai Phẩm tại chữ Giai Phẩm có vẻ Tự Lực Văn Ðoàn, nghe chữ ấy nó
    sang trọng quá tôi không thích. Nhưng lúc đó anh Minh Ðức (nhà xuất bản) và anh
    Ðang đều thích chữ ấy. Trước tôi định cái tít là ‘’Thơ năm người’’, nhưng mọi người
    bảo thế là ‘’gây sự’’ quá, thì sau cũng đành lấy chữ Giai Phẩm’’. (Lê Đạt trả lời phỏng
    vấn RFI).
    Về mặt văn bản, căn cứ vào các sáng tác in trong Giai Phẩm Mùa Xuân,
    chúng ta có thể xác định rằng: Giai Phẩm Mùa Xuân là tạp chí văn học đầu tiên ở
    miền Bắc sau cách mạng tháng Tám, đáp ứng hai đòi hỏi: Tự do sáng tác và đổi mới
    văn học do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với sự cộng tác của Trần Dần, Văn Cao,
    Tử Phác .
    Nội Dung Giai Phẩm Mùa Xuân
    Giai Phẩm Mùa Xuân chuyên về thơ. Tất cả có 9 bài thơ (Lê Đạt ba, Hoàng
    Cầm hai, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, mỗi người một và bài Nhất Định
    17 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Thắng của Trần Dần), ngoài ra còn một truyện ngắn của Sỹ Ngọc và truyện phiếm
    Lão Rồng của Trần Dần.
    Về hình thức, thơ trong Giai Phẩm Mùa Xuân khác với Thơ Mới: Các câu dài,
    ngắn, không đồng đều, nhịp điệu phóng khoáng, có thể nói đây là tạp chí thơ đầu
    tiên thể hiện cách làm thơ hiện đại không vần ở miền Bắc. Tất nhiên cũng mới chỉ là
    những thử nghiệm, các tác giả chưa xác định được căn cước của riêng mình, như
    sau này Lê Đạt với Bóng Chữ, Trần Dần với Cổng Tỉnh, Hoàng Cầm với Về Kinh
    Bắc, Đặng Đình Hưng với Ô Mai, Bến Lạ.
    Về nội dung tư tưởng, sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân có ba hướng khá
    rõ:
    - Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Chống địa chủ, cường hào ác bá,
    đề cao cách mạng (Mùa Xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm), thơ chiêu hồi gửi miền
    Nam (Thơ qua Đài Phát Thanh, Hoàng Cầm). Thơ đề cao chiến thắng và công lao
    của đảng (Hoa Đào Vẫn Nở, Nguyễn Sáng). Thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã
    hội mới (Mỗi Ngày Mỗi Lớn-Gửi Kế Hoạch Nhà Nước 1956, Lê Đạt). Thơ ca tụng
    công nhân quét đường (Thi Sĩ Và Công Nhân, Phùng Quán). Văn tả cảnh đói khổ
    của người dân lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của đảng, từ
    nay, trời sẽ ‘’trong sáng vĩnh viễn’’ (Sổ Tay, Sỹ Ngọc).
    - Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất Định Thắng).
    - Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh Có Nghe
    Thấy Không) và Lê Đạt (Làm Thơ và Mới).
    Thơ Hoàng Cầm
    Tiểu biểu cho khuynh hướng đầu tiên là thơ Hoàng Cầm. Là một trong những
    người chủ chốt xây dựng nên Phong Trào, nhưng khác với Trần Dần và Lê Đạt, hai
    nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi, Hoàng Cầm thuộc lớp đàn anh, đã có vị trí vững vàng
    trên nhiều địa hạt văn nghệ như một nhà thơ, kịch tác gia, diễn viên và đạo điễn.
    Về mặt thi ca, Hoàng Cầm có phần nổi tiếng hơn Tố Hữu: Những bài Đêm
    Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống .tuy không được phổ
    biến rộng rãi trên báo của đảng, nhưng vẫn truyền qua các kênh đại chúng, trở thành
    những tác phẩm tiêu biểu của thi ca kháng chiến và đã đóng góp tích cực vào việc
    tuyên truyền cho tinh thần chiến đấu vệ quốc quân.
    Thơ Tố Hữu, vì có nhiều câu kêu gọi sự giết chóc (dù là giết ‘’quân thù’’):
    ‘’Giết giết nữa bàn tay không ngừng nghỉ .’’, lại có những câu ca tụng đảng trơ trẽn:
    ‘’Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt’’ hoặc ‘’Đảng ta Mác - Lê nin vĩ đại .’’, hoặc những
    câu thờ phụng lãnh tụ ngoại lai: Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít- Ta-Lin bất diệt, đôi khi đi
    đến chỗ vong bản như: Xít-ta- lin ! Xít-ta-lin ! Yêu biết mấy, nghe con tập nói. Tiếng
    đầu lòng con gọi Xít-Ta - Lin .nên dù Tố Hữu có quyền thế, dù thơ Tố Hữu được
    học, được tung hô trong hơn nửa thế kỷ, nhưng thơ ông vẫn không được toàn dân
    chấp nhận. Tố Hữu cũng có những câu thơ hay, nhưng chúng bị ngập trong rừng
    thơ tuyên truyền. Đối với số đông người Việt, Tố Hữu là chủ soái của trường thơ ca
    tụng bác và đảng.
    Hoàng Cầm là nhà thơ đích thực, từ Bắc chí Nam, trước và sau 1954, thơ
    Hoàng Cầm được mọi người yêu mến, bởi thơ ông nói lên tâm sự đớn đau của con
    người. Hoàng Cầm cũng tuyên truyền, nhưng thường tuyên truyền cho lòng yêu
    nước, rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ hay một chủ nghĩa ngoại lai như
    trường hợp Tố Hữu.
    Cho nên, không phải tình cờ mà Nguyễn Hữu Đang, năm 1956, khi ra Nhân
    Văn số 1, đã nhờ Hoàng Cầm viết bài bênh vực Trần Dần: Bởi trong nền thi ca cách
    mạng, chỉ Hoàng Cầm mới có đủ tư thế văn học để đương đầu với Tố Hữu lúc bấy
    giờ.
    18 TÌM HIỂU PHONG TRÀO NHÂN VĂN-GIAI PHẨM
    Trong Nhân Văn-Giai Phẩm, Hoàng Cầm giữ vị trí điều hòa và liên lạc mời
    những người có ‘’vai vế’’ như Văn Cao, Phan Khôi .tham gia Phong Trào. Hoàng
    Cầm cùng với Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng thơ ông trong Giai Phẩm
    Mùa Xuân không có tính cách quyết liệt như thơ Văn Cao, không tố giác như thơ
    Trần Dần và cũng không đòi đổi mới thi ca như thơ Lê Đạt.
    Đó cũng là phong cách của Hoàng Cầm: Trung dung, ôn hòa, cũng có thể
    như ông tự nhận mình là nhát, ít nhất trong những bước đầu. Nhưng khi cần bênh
    vực Trần Dần, ông đã lên tiếng mạnh mẽ trong bài Con Người Trần Dần.
    Bài Mùa Xuân Đến Rồi Đây của ông nói lên nỗi khổ của người dân trong bảy
    mươi năm nô lệ, đói khổ, dưới sự thống trị của bọn ‘’địa chủ cường hào ác bá’’,
    nhưng rồi cách mạng thành công, công bằng, ấm no, hạnh phúc trở lại:
    Bẩy mươi mùa xuân không xuân
    Bảy mươi năm cùng tháng tận
    Dòng sông Nhị ơi ! Con cò lận đận
    Bãi ngô dài cát trắng
    Lòng sông cuốn nặng
    Phù sa
    Nước mắt mẹ con ta
    Chảy ra ngoài biển rộng
    Réo lên đầu sóng
    Đùn đùn mây đen
    Mưa lọt mái nhà rách thủng.
    Mưa thốc xuống tàu chuối khô
    Ướt đẫm manh tải
    Mẹ con nằm trong đêm mưa
    Nằm trong nước mắt đỏ như máu
    Nằm trong nước sông đầy bùn nhơ
    Dòng sông Nhị ơi ! Lúa mượt hai bờ
    Địa chủ đứng trên đê
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...