Tài liệu Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

    LỜI MỞ ĐẦU

    Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chia sẻ rủi ro, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh các rào cản thuế quan và phi thuế quan, đồng thời tăng cường khoa học kỹ thuật, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
    Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua nhà nước Việt Nam đă lần lượt ban hành một loạt văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTTTRNN và đă thu lại được những thành quả nhất định. Tuy nhiên có thể thấy từ trước đến nay, chính sách đầu tư của nhà nước ta luôn chỉ coi trọng và không ngừng khuyến khích hoạt động ĐTTTNN vào Việt Nam. V́ vậy, khi nói đến ĐTTTNN, chúng ta thường chỉ biết đến hoạt động của các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chứ dường như không nghĩ đến việc các công ty Việt Nam cũng có thể ĐTRNN. Tại sao lại không, khi mà hoạt động ĐTTTRNN đă và đang diễn ra mạnh mẽ không những chỉ ở các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc năm 2005 th́ xu hướng ĐTRNN của các nước đang phát triển đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Thực ra hoạt động ĐTRNN của các công ty ở các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore đă diễn ra từ những thập kỷ 70 hay 80. Khi điều kiện kinh tế của các quốc gia đó gần như điều kiện của Việt Nam hiện nay. Bằng cách ĐTTTRNN mà các công ty như Daewoo, Huyndai, Samsung từ các công ty nhỏ đă trở thành các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới. Và hiện nay các công ty ở Trung Quốc đang nổi lên bởi các hoạt động ĐTTTRNN khá táo bạo.
    Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức kư Nghị định thư gia nhập WTO, trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Như vậy, trong thời gian tới cơ hội để tham gia vào thị trường thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Điều đó đồng nghĩa với việc các DN Việt Nam sẽ thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN nhiều hơn. Để có thể tạo tâm lư yên tâm cho DN,
    cũng như có một cơ chế pháp lư đảm bảo cho DN trong hoạt động ĐTTTRNN th́ điều quan trọng nhất là Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, thông thoáng, phù hợp với thông lệ Quốc tế.
    Với mong muốn được t́m hiểu khái quát về hoạt động ngày càng có dấu hiệu khởi sắc này của các DN Việt Nam, đồng thời đóng góp một vài ư kiến nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ĐTTTRNN để hoạt động này có cơ sở pháp lư thuận lợi tiếp tục phát huy vai tṛ của ḿnh trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, em đă quyết định chọn vấn đề: “T́m hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của ḿnh.
    Ngoài lời mở đầu, kết luận cùng danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
    Chương 1. Một số vấn đề lư luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Chương 2. Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.




    Chương 1:
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI.
    1.1 Một số vấn đề lư luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu h́nh hoặc vô h́nh để h́nh thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư được biểu hiện rất đa dạng. Nếu căn cứ vào tính chất quản lư của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: ĐTTT và ĐTGT. Trong đó ĐTTT là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lư, điều hành quá tŕnh sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các h́nh thức đầu tư này là các nhà đầu tư thường kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có vốn đầu tư của ḿnh. Trong hoạt động ĐTTT không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lư của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu tư (2005) của Việt Nam, ĐTTT là h́nh thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lư hoạt động đầu tư (Khoản 2, điều 3). ĐTTT có thể là ĐTTT trong nước hoặc ĐTTTNN. ĐTTT trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các h́nh thức do pháp luật quy định. FDI là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.
    Hiện nay, hoạt động FDI đang diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Mặc dù xu hướng phổ biến là các nước không có sự phân biệt trong cơ chế điều chỉnh pháp luật giữa ĐTTT trong nước và FDI, khái niệm FDI vẫn được định nghĩa trong luật pháp của nhiều nước, như luật khuyến khích đầu tư của Thái Lan, luật khuyến khích và bảo hộ ĐTNN của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành của Hàn Quốc
    Theo quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp ĐTTT trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI [28].
    Tổ chức Thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lư tài sản đó. Phương diện quản lư là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác [29].
    Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lănh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ FDI mà c̣n thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong FDI vượt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư mà việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện hoặc kết hợp với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện.
    FDI bao gồm ĐTTT từ nước ngoài và ĐTTTRNN. Ở bất cứ quốc gia nào th́ hai hoạt động này cũng phải được tiến hành một cách đồng thời. Để phát triển kinh tế, các quốc gia không chỉ phải thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTTT từ nước ngoài mà c̣n không ngừng đẩy mạnh ĐTTTRNN, nhằm mở rộng thị trường nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường, đồng thời tăng cường khoa học - kĩ thuật, nâng cao năng lực quản lư và tŕnh độ tiếp thị với các nước trong khu vực và trên thế giới.
    Ở Việt Nam, khái niệm FDI đă được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật về đầu tư. Văn bản pháp lư đầu tiên về FDI là Điều lệ về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/04/1977. Điều lệ này không nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng tinh thần cơ bản giống như khái niệm FDI được ghi nhận sau này trong Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam năm 1987 cũng như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 như sau: “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”. Như vậy, khái niệm FDI được hiểu là ĐTTT từ nước ngoài vào Việt Nam, c̣n ĐTTT từ Việt Nam ra nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của các Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghĩa là trong một thời gian dài chúng ta không hề có một quy định pháp luật nào điều chỉnh về ĐTTTRNN. Điều này xuất phát từ thực tiễn đất nước c̣n nhiều khó khăn, vốn tích luỹ thấp, tŕnh độ quản lư, tŕnh độ khoa học kĩ thuật c̣n hạn chế cộng thêm cả cách nghĩ lạc hậu “đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn” đă không cho phép các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài [13]. Hiện nay, Việt Nam đă có sự thay đổi về mọi mặt, có vốn dư thừa tương đối, có khả năng tài chính, kinh nghiệm quản lư và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Quan điểm mới khẳng định rằng ĐTRNN là cần thiết, tạo điều kiện nối dài cánh tay của doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường thế giới [10]. V́ vậy, đến NĐ 22 năm 1999 th́ ĐTTTRNN mới chính thức được ghi nhận, theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định nghĩa như sau: “ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam là việc DN Việt Nam đưa vốn bằng tiền và tài sản khác ra nước ngoài để ĐTTTRNN theo quy định của nghị định này” (Khoản 1, điều 1).
    Hiện nay, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN đă chính thức được pháp điển hoá vào Luật đầu tư (2005). Khoản 14 Điều 3 Luật đầu tư định nghĩa: “ĐTRNN là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư”. Sau đó, NĐ 78 năm 2006 được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật đầu tư (2005) về ĐTTTRNN, theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định nghĩa một cách đầy đủ như sau: “ĐTTTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn ĐTRNN để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lư hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài” (Khoản 1, điều 3).
    1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
    a. Về chủ thể của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Hoạt động ĐTTTRNN chủ yếu do các nhà đầu tư là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thực hiện. Đây là một đặc điểm giúp phân biệt với hoạt động ĐTRNN của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
    b. Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Đối với ĐTTTRNN, vốn đầu tư có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc bằng công nghệ. V́ vậy, thông qua hoạt động đầu tư này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến và học hỏi được kinh nghiệm quản lư do nhà ĐTNN đưa vào. C̣n đối với ĐTGT ra nước ngoài, vốn chỉ có thể là tiền, không thể là hiện vật hoặc công nghệ. Nên DN nhận vốn không thể tiếp nhận công nghệ hiện đại trực tiếp từ việc tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp của các nhà ĐTNN. ĐTGT ra nước ngoài dưới h́nh thức ODA bao gồm các loại nguồn như: a) hỗ trợ tài chính: cung cấp tiền ở dạng cho không hay cho vay lăi suất thấp; b) hỗ trợ kỹ thuật: cung cấp cố vấn và những chuyên gia kỹ thuật mà nước tiếp nhận đang thiếu; c) hỗ trợ bằng hiện vật: dưới dạng hàng hoá như tư liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm [7].
    c. Về mục đích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Quan hệ FDI là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị trường, có mục đích kinh doanh. V́ vậy, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất của các chủ đầu tư. C̣n trong ĐTGT ra nước ngoài của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới h́nh thức ODA, kinh doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư bởi quan hệ này không phải là quan hệ kinh doanh một cách thuần tuư. Mục đích ODA có thể là: a) tính đoàn kết quốc tế: như quyết định của Liên hiệp quốc là các nước giàu phải dành 0,7% GDP cho viện trợ cho các nước nghèo; b) lợi ích thương mại: các nước tài trợ muốn dùng viện trợ như một biện pháp để tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát triển và có thể áp dụng các ràng buộc thương mại đối với phần viện trợ của họ; c) lợi ích chính trị: các nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các nước tiếp nhận viện trợ thay đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như: thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham nhũng, các yêu cầu liên quan đến nhân quyền [7].

    d. Về tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    Nếu như ở ĐTGT nước ngoài, nhà ĐTNN góp vốn bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nước sở tại mà không trực tiếp nắm quyền quản lư doanh nghiệp th́ ở ĐTTTRNN, nhà đầu tư lại đóng góp một số vốn đủ lớn để có quyền tham gia trực tiếp vào việc quản lư đối tượng đầu tư. Nhà đầu tư bỏ vốn tự quyết định đầu tư vào lĩnh vực ǵ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Để ĐTTTRNN, nhà đầu tư phải điều tra nắm bắt thị trường, t́m hiểu t́nh h́nh thế giới liên quan đến lĩnh vực đầu tư, đưa ra quyết định đầu tư, xây dựng dự án đầu tư, thực hiện dự án và hưởng thành quả của nó. ĐTTTRNN bảo đảm cho nhà đầu tư kiểm soát và điều hành quá tŕnh vận động vốn đầu tư. Do chủ thể đầu tư bỏ vốn hoàn toàn hoặc có số vốn lớn trong phần vốn góp, do đó nhà đầu tư hoàn toàn có thể kiểm soát hoạt động sản xuất hoặc chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhà đầu tư thường có kiến thức và kinh nghiệm quản lư hoạt động đầu tư ở nước ngoài, hiểu biết về thị trường thế giới chính về thế mà có khả năng bảo đảm hiệu quả của doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
    e. Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư.
    V́ là quan hệ có mục đích kinh doanh, t́m kiếm lợi nhuận nên quan hệ ĐTTTRNN chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng và ràng buộc bởi các quan hệ chính trị. C̣n đối với đầu tư gián tiếp ODA th́ quan hệ này lại mang đậm màu sắc chính trị, bị ảnh hưởng bởi quan hệ giữa các quốc gia với nhau và với các tổ chức tài chính quốc tế, ít chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Hơn nữa, nước tiếp nhận ODA không chỉ bị biến thành con nợ mà c̣n phải bảo đảm một số điều kiện khác manh tính chính trị như phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng, ổn định tỷ lệ lạm phát, cân bằng cán cân thanh toán, phải giảm chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước
    1.1.3 Vai tṛ, ư nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
    ĐTRNN nói chung và ĐTTTRNN nói riêng là một xu thế tất yếu khách quan trong quá tŕnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, chính v́ vậy mà vai tṛ, ư nghĩa của hoạt động này là không thể phủ nhận.
    a. Vai tṛ, ư nghĩa chung.
    v Đối với nước có nhà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:
    - Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư, đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế. Trong nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia sẽ phát triển nhanh với những lợi thế riêng có của ḿnh, góp phần vào quá tŕnh thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Bằng việc tận dụng những lợi thế riêng có, các quốc gia sẽ có chiến lược đầu tư ra thị trường nước ngoài phù hợp để thu về lợi nhuận cao nhất cho ḿnh.
    - Thứ hai: ĐTTTRNN giúp cho nước đầu tư t́m kiếm và tận dụng ở nước ngoài một cách có hiệu quả hơn trong nước, xây dựng được thị trường cung cấp đầu vào ổn định với giá cả phải chăng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế biến v́ thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. V́ vậy các quốc gia thiếu tài nguyên thiên nhiên như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc coi đây là một chính sách nhằm cân bằng sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên trong nước [9].
    - Thứ ba: ĐTTTRNN giúp cho các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với sự ra đời của một sản phẩm, chiếm lĩnh được thị trường là yếu tố sống c̣n. Khi hầu hết các quốc gia đều gia nhập vào một thị trường chung - Thị trường thế giới – th́ vấn đề thị trường cho sản phẩm lại càng trở nên bức thiết. Doanh nghiệp nào có chiến lược đưa được sản phẩm của ḿnh ra nước ngoài trước, chiếm lĩnh được thị trường trước th́ doanh nghiệp đó sẽ thành công.
    - Thứ tư: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư tránh được hàng rào thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế toàn cầu, vẫn c̣n rất nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên trên cơ sở nhiều lư do khác nhau. ĐTTTRNN sẽ giúp các quốc gia đầu tư mở rộng thị trường cho hàng hoá của ḿnh mà không vướng phải bất cứ sự cản trở nào. Điều này cũng giúp cho hàng hoá của các quốc gia đầu tư có sức cạnh tranh nhờ giá cả hợp lư.
    - Thứ năm: ĐTTTRNN sẽ giúp cho không chỉ các doanh nghiệp của các nước đầu tư mà c̣n của nước tiếp nhận tự hoàn thiện ḿnh cả về mặt cơ cấu sản phẩm, công nghệ, kinh nghiệm quản lư. Đối với các nước đầu tư, ở môi trường đầu tư mới, doanh nghiệp muốn đứng vững phải t́m cách thích ứng với thị trường, đáp ứng những đ̣i hỏi của thị trường mới có thể tồn tại.
     
Đang tải...