Luận Văn Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở

Thảo luận trong 'Báo Chí' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Luận Văn Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở VN


    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài:
    Ở Việt Nam, các điều kiện khách quan và chủ quan gần như đã chín muồi cho việc triển khai mô hình tập đoàn báo chí. Sau 20 năm đổi mới, báo chí Việt Nam đã lớn mạnh về mọi mặt và đang có nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa.
    Trên thế giới, từ hơn 100 năm nay, đã có việc các cơ quan báo chí sáp nhập thành tập đoàn, hướng đến mục tiêu lợi nhuận kinh tế, mở ra một huớng làm kinh tế cho ngành công nghiệp báo chí – truyền thông, biến ngành này trở thành một ngành kinh doanh nhiều lợi nhuận. Xu hướng của các tập đoàn truyền thông hiện nay là vươn ra ngoài lãnh thổ, bởi sự phát triển của các tập đoàn trong nước đã đến hồi tới hạn. Trong khi đó, châu Á, trong đó có Việt Nam ta, lại là một thị trường giàu tiềm năng và mới bước đầu được khai phá. Cùng với đợt sóng này là đợt sóng toàn cầu hoá, khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào WTO, như vậy, việc có một tập đoàn làm đối tác của các tập đoàn truyền thông khác, nắm giữ thế chủ động được xem như là một việc làm cần kíp.
    Trên cơ sở nhận định tình hình trong và ngoài nước, nhà nước đã đưa ra chủ trương cho phép hình thành các tập đoàn báo chí, và trước mắt, tạo một số điều kiện nền tảng để báo chí gia tăng tiềm lực kinh tế.
    Đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới và vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt Nam” muốn dự phần vào công việc mà Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Đỗ Quý Doãn đã chỉ ra: “Trên thế giới có nhiều tập đoàn báo chí. Mỗi mô hình có những ưu điểm, đặc trưng riêng của từng nước. Chúng ta nên lựa chọn, học tập để xây dựng một mô hình cho phù hợp. Đây là một vấn đề rất mới. Chúng ta phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm”[27].

    2. Tình hình nghiên cứu:
    Tập đoàn báo chí là một mô hình kinh tế báo chí đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới, và chủ yếu được các nhà nghiên cứu báo chí – truyền thông trên thế giới tiếp cận dưới hai góc độ: lịch sử báo chí và xã hội học truyền thông. Do việc hình thành các tập đoàn báo chí ở các nước tư bản phương Tây tuân theo quy luật phát triển kinh tế, các nghiên cứu phương Tây không nghiên cứu mô hình kinh tế, mà chủ yếu nghiên cứu về vai trò của các tập đoàn truyền thông trong đời sống xã hội và đặc biệt là về tác động của chúng đối với chất lượng báo chí.
    Riêng đối với các quốc gia đang phát triển có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, công tác nghiên cứu lại chú trọng đến mô hình kinh tế, bởi thị trường truyền thông ở các quốc gia này hoặc là chưa hình thành hoặc là đang cần tìm một hướng phát triển. Chính do động cơ “đi tắt đón đầu”, các quốc gia này đã thực hiện các nghiên cứu về lý thuyết và triển khai ứng dụng mô hình tập đoàn báo chí từ hơn chục năm trước đây. Ở Trung Quốc, một quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nhất, công tác nghiên cứu cũng đã được triển khai từ trước năm 1996 – năm mà tập đoàn báo chí đầu tiên (tập đoàn báo chí Quảng Châu) tuyên bố thành lập.
    Tuy nhiên, do đặc thù về mặt chính trị, nhu cầu nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của các tập đoàn báo chí mới chỉ trở nên bức thiết ở xã hội Việt Nam trong thời gian gần đây. Có thể nói, Quyết định 219 của Chính phủ tháng 9/2005 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 đã chính thức khởi động cho các công trình nghiên cứu về mảng đề tài này.
    Kể từ sau khi có chủ trương thành lập tập đoàn, giới làm báo đã công khai bàn luận về vấn đề “tập đoàn báo chí”: làm thế nào? Như thế nào? Triển vọng ra sao? Một số báo cũng bày tỏ tham vọng vươn mình thành tập đoàn, như Tiền Phong, Viet Nam Net, Tuổi Trẻ, SGGP, Họ cũng tự mình tìm hiểu các mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới để áp dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc làm này chủ yếu mang tính nội bộ. Do vậy, công trình NCKH SV này là một đề tài hoàn toàn mới mẻ và mang tính thời sự ở Việt Nam.
    3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
    Tuy đây mới chỉ là một nghiên cứu mang tính chất khởi đầu, mục đích của đề tài là hiểu rõ và gợi ý ứng dụng mô hình tập đoàn báo chí của các nước trên thế giới vào thực tế truyền thông Việt Nam.
    Do vậy, đề tài có hai nhiệm vụ chính. Một là đem lại cái nhìn rộng rãi về các tập đoàn báo chí tiêu biểu trên thế giới, thông qua việc nghiên cứu mô hình kinh tế, vai trò xã hội, và tác động đối với đời sống truyền thông. Hai là nhìn nhận lại thực trạng truyền thông Việt Nam trong bối cảnh chuyển hướng sang hoạt động kinh tế báo chí, để từ đó đưa ra những gợi ý ứng dụng phù hợp. Nhiệm vụ nghiên cứu mô hình quản lý, do giới hạn về tầm nhìn, bản lĩnh chính trị và trình độ nghiên cứu khoa học, xin được tạm gác lại.

    4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
    Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, mô tả, phỏng vấn lấy ý kiến
    5. Giới hạn của đề tài:
    Đề tài “Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam” là một đề tài có trọng tâm nghiên cứu rõ ràng. Tuy vậy, trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo và năng lực xử lý thông tin cũng như do giới hạn về các mối quan hệ giao tiếp trong giới báo chí, đề tài buộc phải giới hạn ở một phạm vi phù hợp.
    Trong quá trình tiếp cận với rất nhiều tập đoàn báo chí trên thế giới, người viết chỉ chọn tìm hiểu và giới thiệu 2 tập đoàn báo chí tiêu biểu của Mĩ (News Corp và Gannett), 6 tập đoàn báo chí của Trung Quốc, và tập đoàn Singapore Press Holdings của Singapore.
    Trong quá trình khảo sát bước chuẩn bị thành lập tập đoàn của các cơ quan báo chí, người viết chỉ chọn tìm hiểu và tiếp cận với 6 cơ quan báo chí (chủ yếu trong lĩnh vực báo in) là: Tiền Phong, VietNamNet, Thanh Niên, Sài gòn Giải Phóng, Saigon Times Group, và Tuổi Trẻ.

    6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
    Trong thời gian qua, khái niệm “tập đoàn báo chí” trở thành môt đề tài bàn tán trong giới báo chí – truyền thông. Nói cách khác, chưa có định nghĩa chính thức về khái niệm này ở Việt Nam. Ở mức độ nghiên cứu còn hạn chế, đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam” tạm thời đưa ra một định nghĩa. Ngoài ra, thông qua quá trình nghiên cứu các tập đoàn báo chí trên thế giới, người thực hiện cũng tạm thời đưa ra một số yếu tố đem lại cái nhìn toàn diện về một tập đoàn báo chí. Đây chính là ý nghĩa lý luận của đề tài.
    Về ý nghĩa thực tiễn, có thể thấy đề tài NCKH SV này là một tài liệu tham khảo có tính ứng dụng cho các các cơ quan báo chí trong quá trình chuẩn bị tiến tới thành tập đoàn báo chí theo đúng chiến lược của Bộ Văn hoá – Thông tin. Ngoài ra, đề tài cũng có giá trị tham khảo đối với SV chuyên ngành báo chí, đặc biệt là các SV muốn có một cái nhìn phổ quát về thực trạng truyền thông ở Việt Nam và thực trạng truyền thông thế giới.
    7. Kết cấu:
    Đề tài gồm có 3 chương.
    Chương 1: Tổng quan về báo chí Việt Nam giai đoạn 2000 – 2005: tập trung khái quát thực trạng báo chí – truyền thông ở Việt Nam trong những năm gần đây, phân chia thành các mảng: báo in, báo nói – báo hình, báo trực tuyến, và những hiện tượng truyền thông khác. Dựa trên cơ sở thực tế, người viết cho thấy nhu cầu phát triển năng động hơn nữa của đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam chính là tiền đề bảo đảm sự hình thành của các tập đoàn báo chí trong tương lai, theo đúng định hướng của Nhà nước.
    Chương 2: Giới thiệu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới: tìm hiểu sơ lược quá trình hình thành các tập đoàn báo chí trên thế giới, thử tiếp cận với khái niệm “tập đoàn báo chí” trên thế giới, giới thiệu đôi nét về một số tập đoàn báo chí của Mĩ, Trung Quốc, và Singapore.
    Chương 3: Chủ trương hình thành các tập đoàn báo chí ở Việt Nam: tập trung tìm hiểu quá trình tư duy và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam của nhà nước, đồng thời khảo sát bước chuẩn bị của các cơ quan báo chí được đánh giá là có triển vọng thành lập tập đoàn.


    KẾT LUẬN
    Những năm gần đây, đời sống báo chí Việt Nam có nhiều biến chuyển mạnh mẽ. Tuy cơ chế chưa có, nhưng thị trường truyền thông về cơ bản đã hình thành. Từ chỗ chỉ là công cụ chính trị - tư tưởng của Đảng, báo chí từng bước bung ra làm kinh tế (cải tiến nội dung tăng doanh số phát hành, thu hút quảng cáo, tham gia vào các hoạt động kinh tế khác). Từ thực tiễn báo chí làm ăn có hiệu quả mà vẫn duy trì được định hướng chính trị, những người lãnh đạo đã có sự đổi mới trong tư duy, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho báo chí tham gia vào hoạt động kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến chủ trương thành lập tập đoàn báo chí trước năm 2010, thực chất là sự hợp thức hoá hoạt động kinh doanh báo chí, tiến đến một nền kinh tế báo chí trong nay mai.
    Tuy nhiên, từ chủ trương đến thực tế còn cần một khâu chuẩn bị lâu dài, cả về tiềm lực của các cơ quan báo chí lẫn cơ chế, chính sách của nhà nước, nhất là trong hoàn cảnh nước ta chưa cho phép có báo chí tư nhân mà chỉ mới cho phép xã hội hoá một số lĩnh vực có liên quan đến báo chí - truyền thông (như xuất bản, phát hành).
    Trong bước chuẩn bị về tiềm lực, một việc hết sức quan trọng là phải hiểu rõ về cái gọi là “tập đoàn báo chí”. Ở đầu chương 2, người thực hiện đề tài NCKH SV này tạm định nghĩa: “tập đoàn báo chí”là một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền thông, có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại hình báo chí nào khác, và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài truyền thông.”[41]
    Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của báo chí thế giới, ở Việt Nam, dù rất nhanh nhạy, tất cả các cơ quan báo chí chỉ mới ở bước “manh nha” làm kinh tế. Do đó, việc học tập kinh nghiệm của các tập đoàn báo chí nước ngoài là một việc không thể thiếu.
    Báo chí Mĩ được đánh giá là một trong những nền báo chí mạnh nhất trên thế giới. Các tập đoàn truyền thông của Mĩ có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn cầu. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý, cũng như kinh nghiệm làm kinh tế báo chí của Mĩ đã và đang được nhiều quốc gia trên thế giới học hỏi, trong đó có cả Trung Quốc. Điều cần phải cân nhắc trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm của báo chí Mĩ chính là điều kiện kinh tế - chính trị của Mĩ khác với Việt Nam. Nước Mĩ chủ trương tự do hoá tối đa lĩnh vực kinh tế báo chí. Chính phủ Mĩ từng đặt ra các luật lệ giới hạn sở hữu truyền thông (tức là giới hạn kinh doanh truyền thông), song cũng chính cơ quan làm luật của nước này lại đấu tranh để tháo dỡ từng điều luật một. Điều đó tạo nên đặc điểm phức tạp, chồng chéo của nền kinh tế báo chí Mĩ. Các nhà xã hội học truyền thông cho rằng đó là mầm mống của chủ nghĩa độc quyền truyền thông, là nguy cơ đe doạ tính dân chủ, tính minh bạch trong hoạt động báo chí, làm suy giảm chất lượng của báo chí. Do vậy, khi học tập mô hình tập đoàn truyền thông Mĩ, cần chú trong đến tính chuyên nghiệp trong điều hành kinh tế báo chí và rút kinh nghiệm về mặt hoạch định chính sách.
    Xét về thực lực, các tập đoàn báo chí của Trung Quốc không mạnh bằng các tập đoàn báo chí Mĩ, và thực chất họ cũng chỉ là “học trò” của các tập đoàn truyền thông Mĩ. Điều đáng học ở Trung Quốc chính là mô hình quản lý tương đối phù hợp với điều kiện chính trị của một quốc gia theo đuổi chủ nghĩa xã hội như Việt Nam. Mặt khác, cần học Trung Quốc ở cách ứng xử và “chia sẻ kinh nghiệm” với các đối tác truyền thông lớn trên thế giới.
    Nền báo chí Singapore tạm được coi là mạnh nhất khu vực Đông Nam Á. Lợi thế của các tập đoàn báo chí ở Singapore là sự hậu thuẫn tuyệt đối của Chính phủ thông qua cơ chế, chính sách. Tuy nhiên, mô hình quản lý của Singapore chỉ phát huy tác dụng đối với các quốc gia không đông dân, bộ máy công quyền linh hoạt, gọn nhẹ. Mô hình này có thể ứng dụng ở Việt Nam, nhưng không phải là trên phạm vi toàn quốc, mà chỉ nên thí điểm ở một vài thành phố năng động, tự chủ. Điều đáng học nhất ở Singapore chính là cách triển khai bài bản những gì đã học được từ các tập đoàn trên thế giới, là tham vọng đưa truyền thông vươn ra ngoài lãnh thổ, đặc biệt là ở chiến lược “lên ngôi” trong thị trường truyền thông khu vực – nơi mà tiềm năng của thị trường truyền thông còn dồi dào.
    Ở Việt Nam hiện nay, tuy một số cơ quan báo chí nhận được sự khuyến khích từ phía nhà nước, nhưng kinh nghiệm trên thế giới cho thấy tính hiệu quả của các tập đoàn báo chí chỉ có thể đạt được nếu tờ báo có sự phát triển căn cơ về thế và lực, không nên chủ quan, duy ý chí. Mặt khác, việc có thành lập được tập đoàn báo chí hay không còn phụ thuộc vào khả năng đổi mới tư duy và tốc độ hoạch định chính sách của nhà nước.
    Năm 2010 không phải là một mốc quá gần cho sự ra đời của các tập đoàn báo chí, nhưng là là một mốc quá gần cho sự lớn mạnh của các tập đoàn này. Tuy nhiên, nhìn lại tốc độ phát triển của đời sống báo chí – truyền thông Việt Nam trong 5 năm qua, có lẽ mục tiêu trở thành tập đoàn báo chí quy mô quốc gia không phải là quá khó thực hiện.


    ________________________________________
    [1] ngay cả những số liệu được đang tải trên các phương tiện truyền thông cũng không hề trích dẫn nguồn, người viết phải gặp nhiều vất vả khi muốn truy lại nguyên gốc của các số liệu

    [2] Lấy nguồn từ bài phỏng vấn đồng chí Nguyễn Khoa Điềm – Trưởng ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương đăng trên Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa, 6/2005 và đăng lại trên trang web của Đảng Cộng sản Việt Nam; bài viết “Báo chí với sự nghiệp đổi mới đất nước” đăng trên Tạp chí Người làm báo số tháng 8/2005, tác giả Hà Quốc Tri
    [3] Tạp chí Người làm báo, tháng 02/2006, trang 22 – 23
    [4] Tác giả Văn Hùng đã phân chia mảng tạp chí thành 4 loại, theo cơ quan chủ quản. Tuy nhiên, vì đối tượng của đề tài NCKH này, người viết đã nhóm 3 loại đầu lại thành một nhóm. Sau đây là nguyên văn cách chia của tác giả Văn Hùng:
    “Một là, tạp chí khoa học.
    Hai là, tạp chí trực thuộc liên hiệp hội, các hội khoa học, hội kinh tế, hội nghề nghiệp, đoàn thể chính trị - xã hội, các hội phi Chính phủ Dạng này hiện có khoảng gần hai trăm đầu tạp chí. Hầu hết các tạp chí này được xếp vào đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động theo cơ chế tự trang trải.
    Ba là, tạp chí thuộc các bộ, ngành, Tổng công ty thường gọi là tạp chí chuyên ngành. Đương nhiên, trong số này có thể bao hàm cả nội dung khoa học.”

    [5] Theo giáo trình của GV Bùi Huy Lan
    [6] “media – truyền thông: hiểu một cách đầy đủ bao gồm cả lĩnh vực sách, quảng cáo và điện ảnh
    [7] Media economics (kinh tế báo chí, kinh tế truyền thông) bao hàm các vấn đề kinh tế cả về lí thuyết lẫn thực hành riêng cho các lĩnh vực truyền thông. Mối quan tâm đặc biệt của kinh tế báo chí là các chính sách kinh tế, hoạt động của các công ty truyền thông, trên các lĩnh vực như báo in (journalism) và ngành công nghiệp tin tức (news industry), sản xuất phim ảnh (film production), các chương trình giải trí (entertainment programs), in ấn (print), phát hình – phát thanh (broadcast), quảng cáo (advertising) và giao tế cộng đồng (public relations). Sự bãi bỏ các quy định trong lĩnh vực truyền thông, sở hữu truyền thông và sự tập trung, thị phần, các chiến lược kinh tế cạnh tranh, “thuế truyền thông” (media tax) là đặc điểm kinh tế báo chí Mĩ. Kinh tế báo chí liên quan đến cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội .
    [8] Theo giáo trình chép tay môn “Lịch sử báo chí thế giới” của GV Đào Ngọc Chương
    [9] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
    [10] Tên gọi của một bộ phim phỏng theo hình mẫu của các ông chủ báo giàu sụ
    [11] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
    [12] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
    [13] Theo giáo trình chép tay của GV Đào Ngọc Chương
    [14] Theo trang web Who Owns What | Columbia Journalism Review, phần Who Owns What
    [15] (Việt NamE, ấn bản điện tử tiếng Anh của tờ Thanh Niên, và một số trang web khác)
    [16] Trang web WAN-IFRA - Welcome to WAN-IFRA, 02/2006
    [17] Nguyên văn: A media conglomerate describes companies that own large numbers of companies in various mass media such as television, radio, publishing, movies, and the Internet. A conglomerate is a large company that consists of divisions of seemingly unrelated businesses.
    [18] Nguyên văn: It is questionable whether media companies are unrelated, as of 2006
    [19] Nguyên văn: A few global corporations are horizontally integrated; that is, they control a significant slice of specific media sectors, like book publishing, which has undergone extensive consolidation in the late nineties. "We have never seen this kind of concentration before," says an attorney who specializes in publishing deals. But even more striking has been the rapid vertical integration of the global media market, with the same firms gaining ownership of content and the means to distribute it. What distinguishes the dominant firms is their ability to exploit the "synergy" among the companies they own.
    [20] Trang 28: concentration may occur vertially, i.e. integrating formerly independent economic entities of different production levels into one company, or horizontally, i.e. merging company of the same production level.
    [21] Robert W. McChesney, The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerates, 1999, đoạn “Indeed, the genius of the commercial-media system is the general lack of overt censorship. As George Orwell noted in his unpublished introduction to Animal Farm, censorship in free societies is infinitely more sophisticated and thorough than in dictatorships, because “unpopular ideas can be silenced, and inconvenient facts kept dark, without any need for an official ban.”
    [22] Nghiên cứu này bao quát sự phát triển của nền báo chí TRUNG QUốC tính từ năm 1949 đến nay, khảo sát 5 khu vực chính: Guangzhou, Beijing, Shanghai, Chengdu and Xi’an, tập trung chú ý vào sự trỗi dậy của các “news companies” lớn (các cơ quan báo chí hoạt động như các doanh nghiệp) và sự hình thành của các “press groups” (tập đoàn báo chí).
    [23] As China transformed from a planned to a market economy, the newspaper industry gradually developed as well, moving towards market competition. A publisher’s survival now depends more on its own business operations than on governmental support. Dominant positions of government subscriptions have been taken over by individual subscriptions. Competition among publishers has become more intense as they seek to attract readers.
    Due to strong competition among newspaper companies and the liberalization of China’s publishing industry, in line with WTO commitments, more news companies are consolidated into press groups.

    [24] Ở TPHCM, nhà báo Linh Hà (Võ Như Lanh) của tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn là người đặc biệt tâm huyết với vấn đề báo chí phải tham gia hoạt động kinh tế của nước nhà như một doanh nghiệp. Ông là tác giả đầu tiên viết về mô hình tập đoàn báo chí Trung Quốc, đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 17/12/1998. Trong bài ký sự của mình, tác giả đề cập đến đến 2 tập đoàn: tập đoàn báo chí Thâm Quyến và tập đoàn báo chí Phương Nam. Riêng đối với tập đoàn báo chí Thâm Quyến, vào thời điểm năm 1998, dù là một trong bốn tập đoàn báo chí mạnh nhất về kinh tế ở Trung Quốc, nhưng vẫn chưa chính thức trở thành tập đoàn. Đến năm 1998, TRUNG QUốC chỉ mới cấp phép cho 6 tập đoàn báo chí: 2 ở Bắc Kinh, 1 ở Thượng Hải, và 3 ở Quảng Châu. Lưu ý ở thời điểm này, quy mô của các tập đoàn báo chí khá nhỏ. Ngoài ra, tuy đây là tài liệu cũ nhưng lại rất có ích cho nền báo chí Việt Nam cũng chỉ mới đi những bước đầu tiên trong việc hình thành tập đoàn báo chí.
    [25] Vào khoảng cuối tháng 3-2005, báo SGGP đã có chuyến tham quan và làm việc với một số tờ báo ở Trung Quốc. Tháng 5/2005, báo SGGP cho đăng 3 kì “Trung Hoa báo nghiệp ký sự” liên tiếp, mô tả và rút tỉa kinh nghiệm của các tập đoàn báo chí Trung Quốc. Phần này được viết chủ yếu dựa theo kì 1 “Từ Nhân Dân nhật báo đến Bắc Kinh tập đoàn báo nghiệp” – kì này ghi nhận hiện tượng báo Đảng làm kinh tế và sự khang trang của một trong những cơ quan báo chí hàng đầu Trung Quốc: Beijing Daily Group (tập đoàn báo chí Bắc Kinh nhật báo). Không biết vì lí do gì, tác giả Nguyễn Đức cho rằng Nhân Dân nhật báo không phải là một tập đoàn. Tôn trọng ý kiến của tác giả, người viết tạm thời không giới thiệu lại Nhân Dân nhật báo dưới cái nhìn như một tập đoàn, mà chỉ giới thiệu tập đoàn Bắc Kinh nhật báo.
    [26] Bắc Kinh nhật báo có số phát hành 400.000 số/kì, cao hơn tờ nhật báo Tuổi Trẻ của Việt Nam (xấp xỉ 370.000 số/kì)
    [27] Phần giới thiệu này dựa trên kì 2 “Văn Hối Tân Dân báo: Mô hình tập đoàn kinh tế truyền thông” (báo SGGP). Kì này tập trung mô tả tỉ mỉ mô hình tập đoàn báo chí Văn Hối Tân Dân báo (Wenhui-Xinmin United Press Group” ở Thượng Hải.
    [28] Phần giới thiệu này dựa trên kì 3 “Quảng Châu nhật báo – người khổng lồ tỉnh lẻ” (báo SGGP), tập trung mô tả về tập đoàn báo chí đầu tiên của TRUNG QUốC.
    [29] Thông qua website .: (bản tiếng Anh)
    [30] Phần viết này chủ yếu được thực hiện trên cơ sở tham khảo các bài nhận định đăng trên tạp chí Nghề Báo.
    [31] Người thực hiện đề tài NCKH đã đổi tên mục 3.4. Xây dựng mạng lưới hệ thống kỹ thuật mới lại như trên cho dễ hiểu.
    [32] Theo Brochure của SPH, phần Giao tiếp cộng đồng
    [33] Theo brochure In Touch
    [34] At SPH, human resources and talent are our most cherished
    [35] Đề án “Thí điểm cải cách thể chế ngành văn hoá” (7-2003) của Trung Quốc đánh dấu mốc mới trong cải cách công nghiệp truyền thông của Trung Quốc. Đề án này có những điểm nổi trội như sau: ngành truyền thông được chia thành hai khu vực: công ích phi lợi nhuận và thương mại; các cơ quan báo chí của Trung Quốc tăng cường tính độc lập về tài chính, cắt bỏ bao cấp; một số tập đoàn báo chí cổ phần hoá và niêm yết trên thị trường chứng khoán; khối tư nhân được phép đầu tư vào một số kênh truyền hình hoặc phụ trương các tờ báo; nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia đầu tư trong khâu phát hành hoặc bán báo ra nước ngoài . Mặt khác, để thực hiện mục tiêu tạo ra “những thương hiệu báo chí đạt tầm cỡ thế giới”, chính phủ trung ương Trung Quốc đã chọn ra tám tờ báo toàn quốc và chuyển đổi những tờ này thành các công ty cổ phần với đa số cổ phần do nhà nước nắm giữ, đồng thời Trung Quốc cho phép các tập đoàn báo chí nước ngoài giới thiệu nguồn vốn, kĩ năng quản lí, kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp và điều hành cho Trung Quốc. Đây là một bước đi khôn ngoan, ở việc Trung Quốc không dựa hoàn toàn vào nguồn đầu tư nước ngoài mà biết huy động sức dân (cổ phần hoá), ở lập luận “Trung Quốc cần vốn để mở rộng, còn các đối tác nước ngoài muốn khai thác “mỏ vàng” trong khu vực báo chí của Trung Quốc”, và cả ở thái độ từng bước tự do hoá thị trường báo chí và xuất bản Trung Quốc nhằm “mài sắc” sức cạnh tranh của mình [36], [10].
    [36] Dựa trên hai bài viết đăng trên tạp chí Nghề Báo của PV Nhị Hà: “Điều quan trọng nhất của Nghề Báo là phải tôn trọng sự thật!” (Nghề Báo số 21, tháng 7/2004), “Để nên danh phận phải hội đủ thế và lực!” (Nghề Báo số 38, tháng 12/2005)
    [37] Ông Dương Xuân Nam có ý cho rằng tổng biên tập nên đồng thời là chủ báo, và như vậy, người làm tổng biên tập cần phải là người thực sự có năng lực, kinh nghiệm, điều kiện, dám nghĩ dám làm, bảo đảm hoạt động hiệu quả của cơ quan báo chí.
    [38] Phần viết này được xây dựng dựa trên các bài phỏng vấn “Ông Nguyễn Anh Tuấn – Tổng Biên Tập Báo điện tử VIETNAMNET: “Xây dựng VietnamNet thành công ty truyền thông đa phương tiện, đa loại hình báo chí” Tạp chí Nghề Báo 37 – 11/2005; “Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cách nói, cách nhìn của chúng ta cũng cần phải khác”, Tạp chí Người làm báo, tháng 1/2006, trang 19 – 20
    [39] Phần viết dựa vào bài phỏng vấn Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên của nhà báo Ngô Thị Kim Cúc
    [40] Xin xem thêm phụ lục
    [41] Xin đọc lại Chương 2.2, phần tìm hiểu về khái niệm “tập đoàn báo chí”



    Luận văn chia làm 3 chương, dài 79 trang

     
Đang tải...