Tài liệu tiểu thuyết của Thuận

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: tiểu thuyết của Thuận

    MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tài
    1.1. Có thể nói, nỗ lực đổi mới không ngừng là hướng đi chủ yếu của văn học Việt Nam sau 1975 và đú chớnh là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên tính đa dạng và phong phú của giai đoạn văn học này. Đặc biệt, đối với các nhà văn “hậu đổi mới” (từ giữa những năm 90 thế kỷ đến nay), vấn đề quan tâm lớn nhất là “khụng c̣n là viết về cái ǵ mà viết như thế nào”. Có thể thấy điều đó qua một loạt sáng tác của các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn B́nh Phương, Hồ Anh Thỏi, .Cựng với những thay đổi về t́nh h́nh văn hoá - xă hội và xu thế cách tân mạnh mẽ của văn học trong nước và thế giới, ḍng văn học hải ngoại cũng có những bước bứt phá, đổi mới về nhiều mặt. Trong số những cây bút tiêu biểu ấy, Thuận là một gương mặt nổi bật với những trăn trở, thể nghiệm mới trong sáng tác.
    1.2. Cho dù không ít người tỏ ra hoài nghi về số phận của tiểu thuyết th́ đến nay, tiểu thuyết vẫn tiếp tục phát triển và thực sự vẫn là “thể loại cỏi”, đóng vai tṛ quyết định đối với sự phát triển và quy mô của bất cứ một nền văn học văn học nào. Một mặt, tiểu thuyết xâm thực vào các thể loại, mặt khác, dung nạp vào nó ưu thế của nhiều thể loại để tạo nên “dưỡng chất” cho ḿnh. Ngay cả cây bút xuất sắc trong lĩnh vực truyện ngắn như Nguyễn Huy Thiệp cũng từng khẳng định: thời nay là thời của tiểu thuyết! Với Thuận, sau một số truyện ngắn, tiểu thuyết thực sự là “cuộc phiêu lưu nguy hiểm” nhằm đi t́m và khẳng định những giá trị mới của chị.
    1.3. Những nỗ lực của Thuận đă được ghi nhận bằng sự chào đón nồng nhiệt của độc giả và Tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2005 cho cuốn Paris, 11 tháng 8 (2005). Chính v́ vậy, nghiên cứu những cách tân trong tiểu thuyết của Thuận là một hướng đi triển vọng trong việc nh́n nhận, khám phá tài năng của nhà văn cũng như những hướng cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau đổi mới. Đây cũng chính là lựa chọn của chúng tôi trong quá tŕnh thực hiện luận văn này.
    2. Lịch sử vấn đề
    2.1. Thuận mới chỉ xuất hiện trên văn đàn Việt Nam dăm năm trở lại đây, nhưng những tác phẩm của chị đó gơy “sốt” với độc giả và giới phê b́nh. Luôn có ư thức cách tân văn học, nghiêm túc với công việc của ḿnh, bạo dạn và thậm chí khiêu khích với thẩm mỹ truyền thống, Thuận nhận được không ít sự ủng hộ cũng như bài xích, chê bai.
    Tuy nhiên, cho đến nay những ư kiến về Thuận chỉ là những bài báo, phỏng vấn, điểm sách, những bài phê b́nh nhỏ lẻ, chưa có công tŕnh nào đáng kể. Trong những tài liệu mà chúng tôi bao quát được, có thể tập hợp thành một số ư kiến tiêu biểu sau:

    2.1.1. Trong bài viết Suy nghĩ về dịch thuật và ngôn ngữ văn chương, Cao Việt Dũng khẳng định: “Thuận đă tạo ra một thế giới khác, một thế giới mong manh nằm trên biên giới các nền văn hóa, nhưng cựng lỳc cũng là một thế giới vững chắc với các nền móng chung, với những lối liên thông với những động hướng gần gũi nhau.” Thuận có “một thứ can đảm phi thường trong một khí hậu văn chương đậm màu tầm thường đang vây bủa: can đảm bịa đặt”. Cũng là dịch giả này, trong lời giới thiệu cuốn T mất tích, đó nhận xét: “T mất tích đẩy xa hơn một bước rất dài ngưỡng cửa bất an và hoang vắng của con người hiện đại trong các xă hội hiện đại. Con người trong T mất tích không c̣n mang thân phận của kẻ tha hương bơ vơ trong một bối cảnh xa lạ, mà lâm vào một t́nh thế khác không kém phần tuyệt vọng .Thuận tiếp tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm đến những ngơ ngách đặc biệt trong cuộc sống thời đại chúng ta”.

    2.1.2. Trong lời bạt cho Made in vietnam, Đoàn Cầm Thi cho rằng: Thuận đăphản ảnh được “cỏi nhàn nhạt của xă hội Việt Nam hôm nay”, đă viết một cuốn đặc biệt “khụng chương đoạn, không kết không mở không cao trào xung đột”, “tạo cho tiểu thuyết một nhịp điệu ghồ ghề”. Trong bài I’m yellow:Khoái cảm văn bản - đọc Chinatown của Thuận, Đoàn Cầm Thi đă có nhiều phát hiện sâu sắc về lối viết, về những cách tân của Thuận. Bài viết nhấn mạnh: Thuận đă đi t́m “một b́nh diện mới của thế giới”, đặt những di dân nhỏ bé trong các chiều kích thời gian: quá khứ - hiện tại – tương lai để thấy rơ hơn thân phận của họ. Đặc biệt Thuận đă tạo “phong cách thơ” trong tiểu thuyết”. Phong cách ấy được tạo nên bởi “nhiều câu mang tiết tấu lạ, nhưng cách đổi nhịp vô cùng linh động ”, “bằng cách nói song hành khi tương phản khi hô ứng”, “bằng cỏch luụn lạc đề, mải cuốn theo cuộc chạy đua với chữ”

    2.1.3. Trong một số công tŕnh nghiên cứu khoa học, chúng tôi thấy có nhiều ư kiến phân tích về những cách tân trên nhiều phương diện trong tiểu thuyết của Thuận. Luận văn Ư thức về nhịp điệu trong một số tiểu thuyết ViệtNam thời đổi mới của Lê Thị Thanh Huyền đề cập đến tính nhịp điệu được ư thức rơ rệt trong tiểu thuyết của Thuận, đặc biệt từ cỏc phộp lặp ở nhiều cấp độ. Trong luận văn Những cách tân nghệ thuật theo hướng hiện đại của tiểuthuyết Việt Nam thời ḱ đổi mới, tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga cũng đề cập, phân tích về những cách tân của Thuận ở phương diện nhân vật, tổ chức điểm nh́n trần thuật và giọng điệu mang tính chất uymua đen. Nhịp điệu tiểu thuyết Chinatown ở hai cấp độ cơ bản: lớp cấu trúc h́nh tượng và lớp cấu trúc h́nh thức cũng đă được t́m hiểu trong báo cáo khoa học Nhịp điệu tự sự trong Chinatown của Thuận của sinh viên Đỗ Thị Thoan (04/2006)

    2.1.4. Những tiểu thuyết của Thuận đă gây sự chú ư đối với dư luận. Điều đó thể hiện ở rất nhiều ư kiến đánh giá, phân tích phê b́nh, nhiều bài giới thiệu sách, phỏng vấn được đăng trờn cỏc bỏo mạng hoặc website cá nhân:
    - Ngôn ngữ Việt thừa tinh tế để sáng tạo [38]
    - Phỏng vấn tác giả Made in vietnam [65]
    - Khi nhà văn yên vị tức là lúc ng̣i bút bất lực [46]
    - Các bài phỏng vấn trên website Phongdiep.net [66]
    - Với tôi mỗi tác phẩm như một chuyến đi xa. [30]
    - Đụi nét về thi pháp và kết cấu của Chinatown [21]
    - Thuận và Phố Tàu: dùng nghịch lí để kể những nghịch lí[22]

    Nh́n chung các ư kiến đều cho rằng Thuận đă có nhiều nỗ lực đổi mới và là một gương mặt trẻ độc đáo đầy triển vọng của văn học Việt Nam đương đại với một lối viết hiện đại, tinh thần cách tân mănh liệt và kiên quyết chối từ truyền thống. Sáng tác của Thuận hàm chứa chất hài hước sâu thăm thẳm, không lẫn với bất cứ ai, không lấp đi được cái bi kịch lớn lao của cuộc sống, đó là một giọng văn luôn hàm ư giễu cợt, là nhịp điệu lạ lùng xuyên suốt cuốn sách và xuyên suốt cả một cuốn tiểu thuyết dang dở nội tiếp trong đó . Lời giới thiệu của dịch giả Dương Tường như một nhận định tiêu biểu: “Ngổn ngang và tung tóe những mảnh của một tṛ chơi ghộp hỡnh khụng chương hồi liền một mạch suốt hơn 200 trang sách, bề bộn những suy ngẫm, h́nh tượng, chi tiết nhấn đi nhấn lại bất tận đến thành ám ảnh, như lưỡi dao cùn nhay măi không dứt như cái đĩa hát cũ bị vấp rănh cuốn sách đậm đặc một thứ humour xót xa và không thiếu những yếu tố mà giờ đây người ta gọi là hậu hiện đại này nhiều lúc làm tôi như nhập đồng”. Nhà phê b́nh Phạm Xuơn Nguyờn cũng đánh giá cao sức lao động văn chương của Thuận, cho rằng “cỏc tác phẩm của Thuận có những t́m ṭi về nội dung và nghệ thuật, rơ nhất là về cách viết” [35]
    2.2. Trong các tài liệu mà chúng tôi bao quát được, những cách tân trong tiểu thuyết của Thuận chỉ mới được đề cập qua một số bài viết nhỏ lẻ, trong từng tác phẩm cụ thể, chưa có một công tŕnh nghiên cứu toàn diện. Tuy nhiên, đó cũng là những gợi ư quư báu cho chúng tôi thực hiện luận văn này.
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
    3.1 Đối tượng
    - Nghiên cứu những nét mới về nghệ thuật tiểu thuyết ở góc độ lí luận và thực tiễn tiểu thuyết Việt Nam trong nước cũng như văn học ngoài nước sau Đổi mới.
    - Nghiên cứu những cách tân trong tiểu thuyết của Thuận ở các phương diện: quan niệm nghệ thuật, kết cấu và nhân vật, đi t́m một giọng điệu riêng.
    3.2. Phạm vi
    Luận văn chủ yếu khảo sát các tiểu thuyết của Thuận đă được xuất bản:
    1. Made in Vietnam
    2. Chinatown
    3. Paris 11 tháng 8
    4. T mất tích
    Ngoài ra, người viết sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu với một số tiểu thuyết, truyện ngắn của một số nhà văn trong và ngoài nước để làm nổi rơ hơn những đóng góp nghệ thuật của Thuận.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    4.1. Phương pháp thống kê
    Để khái quát những cách tân của Thuận, chúng tôi sự dụng phương pháp khảo sát thống kê nhằm làm cơ sở cho những khái quát khoa học của ḿnh. Trong luận văn, phương pháp này được vận dụng chủ yếu khi: thống kê tần số xuất hiện của các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận, khảo sát thống kê tỉ lệ sử dụng câu (độ dài ngắn khác nhau), cỏc phộp lặp .
    4.2. Phương pháp phân tích
    Phương pháp này nhằm cụ thể hóa các phương diện cách tân trong tiểu thuyết của Thuận dựa trên những nét khái quát mà phương pháp khảo sát thống kê đă chỉ ra.
    4.3. Phương pháp so sánh
    Đây là phương pháp nhằm t́m ra những cách tân của tiểu thuyết đương đại, những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam (trong nước và hải ngoại) sau 1975 trên cả hai b́nh diện lư thuyết và thực tiễn, làm rơ những cách tân của Thuận trong tiểu thuyết so với các nhà văn trước đó và cùng thời.

    5. Đóng góp mới của luận văn
    - Lần đầu tiên luận văn đặt vấn đề nghiên cứu cách tân trong tiểu thuyết của Thuận một cách tương đối hệ thống và toàn diện.
    - Người viết sẽ cố gắng sử dụng những tri thức về thi pháp học và tự sự học để đi sâu phân tích sự đổi mới trong quan niệm và kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết của Thuận.
    Tuy nhiên, chúng tôi cũng xem như đây chỉ là một đề án, một thử nghiệm bước đầu để khám phá cây bút tiểu thuyết nhiều cách tân này.
    6. Cấu trúc của luận văn
    Tương ứng với nhiệm vụ đặt ra ngoài phần Mở đầuKết luận, luận văn gồm 3 chương:
    Chương 1: Thuận trong bối cảnh đổi mới tiểu thuyết hiện nay
    Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận
    Chương 3: Nghệ thuật xây dựng kết cấu và tổ chức trần thuật














    CHƯƠNG 1
    THUẬN TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT HIỆN NAY

    1.1. Quan niệm mới về tiểu thuyết
    Trong hội thảo về tiểu thuyết ở Đại học Strasbourg (23 – 25/04/1970), không ít người đặt vấn đề: tiểu thuyết đang đi về đâu, trước sự phổ biến của các phương tiện nghe nh́n, trước ưu thế của những “thể loại khỏe mạnh hơn, chẳng hạn như một bài phóng sự hảo hạng, những kiểu tự sự trực tiếp, công thẳng vào thực tại”[9]. Tuy thế, tiểu thuyết đă không chết như người ta từng tuyên bố. Nó chỉ biến hóa để đáp ứng những yêu cầu mới trong một thời đại mới với những đặc thù của đời sống hiện đại xô bồ hỗn loạn, khủng hoảng niềm tin. Nó vẫn có một sức sống mănh liệt, chiếm vị trí không thể thay thế trong nền văn hóa nhân loại. Là một thể loại phức hợp để nhận thức đời sống, tiểu thuyết thực sự là một thể loại của hôm nay, như Bờlinxki đó từng nêu một quan điểm biện chứng trên phương diện mỹ học: “ .Nếu như có tư tưởng của thời đại th́ cũng có những h́nh thức của thời đại. Với sự đổi mới về sáng tác, quan niệm về tiểu thuyết cũng đó cú những biến đổi sâu sắc .”
    Trong khuôn khổ luận văn, trước khi đi sâu t́m hiểu những cách tân trong tiểu thuyết của Thuận, chúng tôi xem xét sự đổi mới về tư duy tiểu thuyết như một tiền đề hết sức quan trọng ảnh hưởng đến các nhà văn hiện đại, trong đó có Thuận.
    1.1.1. Sự gây hấn và phá vỡ những rào cản truyền thống
    Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, tiểu thuyết hiện đại có những sự khác biệt rất lớn so vơi tiểu thuyết truyền thống. Người ta vẫn đọc H. Balzac, V. Hugo . nhưng rơ ràng quan niệm và cách thức tổ chức cấu trúc tiểu thuyết hiện đại đó khỏc xưa rất nhiều. Trong tiểu luận xem xét về vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỉ XX, Hoàng Ngọc Tuấn đă đề cập đến những quan niệm cũ về tiểu thuyết, gồm những đặc điểm tổng quát sau đây:
    Trước hết tiểu thuyết truyền thống được viết bằng văn xuôi và mang tính cách hiện thực, chủ yếu nhắm vào việc thuật tả đầy đủ và trung thực những kinh nghiệm trong đời sống con người. Loại văn xuôi hiện thực này chủ yếu giải trí người đọc bằng cách kể chuyện, qua đó người đọc thích thú theo dơi những phát triển và diễn biến đời sống của một hay nhiều nhân vật có những đặc trưng cá nhân giống ḿnh hoặc ngược lại với ḿnh. Những phát triển và diễn biến trong tiểu thuyết thường xảy ra theo tŕnh tự thời gian và dựa trên một chủ đề mang tính đạo đức hay luân lư. Và cuối cùng tính cách mỹ học của tiểu thuyết nằm trong vẻ đẹp về h́nh thức, phản ánh qua ngôn ngữ gọn gàng, súc tích, tính nhất quán giữa tổng thể và các phân đoạn, sự phát triển tinh tế từ phần này đến phần kia. Vẻ đẹp h́nh thức có tác dụng làm cho cuộc kể chuyện được mạch lạc, trôi chảy, hợp lư và do đó làm tăng khả năng lôi cuốn người đọc vào cơi “hiện thực” hư cấu của câu chuyện.
    Quan niệm hiện thực đă là một sự cách tân lớn so với quan niệm cổ điển trước đó (đ̣i hỏi nghệ thuật thể hiện cuộc sống theo một khuôn thức lí tuởng “như nú nờn là”).
    Tuy nhiên để diễn tả hiện thực “như nó là”, tiểu thuyết phải sử dụng ngôn ngữ như một tấm gương phản chiếu trung thực, hay là một khung cửa không có màn che, qua đó mọi sự vật và diễn biến được nh́n thấy đúng như sự thực không bị bóp méo. Chính ở chỗ này đă bộc lộ rơ những nghịch lư. Bởi ngôn ngữ không bao giờ có thể đồng nhất với đối tượng được miêu tả, nghĩa là không bao giờ nó có thể tả thực đúng đối tượng của nó, mà cùng lắm chỉ là một gợi ư về đối tượng ấy. Ngôn ngữ không thể diễn tả hết những góc cạnh phức tạp và phong phú của thế giới, hiện thực trong tiểu thuyết chỉ là một hiện thực đó được”biờn tập”, nghĩa là đă được chọn lựa, xếp đặt lại, cắt xén, tô màu. Mà “hễ bạn lọc lựa sự kiện, tức là bạn đă uốn nắn sự thực rồi” (Calvin). Mặt khác, bản chất của ngôn ngữ chỉ là những kí hiệu chuyển nghĩa, mà ư nghĩa của mỗi kư hiệu lại bị hạn chế bởi những khung văn hóa, khung lịch sử, khung ư thức tạo ra nó. V́ vậy không thể nào đạt được sự khách quan trong miêu tả. Hơn nữa, mục đích phản ánh cuộc sống “như nó là” lại chính là cái “barie” ngăn cản khả năng phong phú, ḱ diệu của tiểu thuyết. Tiểu thuyết, chỉ như một “tấm gương thường, một mặt phẳng và nhẵn, nó sẽ chỉ phản chiếu một h́nh ảnh mời nhạt của các vật thể; ta biết rằng màu sắc và ánh sáng mất đi ở sự phản chiếu đơn giản”[14,25].
    Bên cạnh đó sự lệ thuộc vào cốt truyện và mục đích thuyết phục người đọc ở các diễn biến sự kiện, thu hút họ vào cái được kể làm cho tiểu thuyết cũ chậm được cách tân. Trong khi đó đời sống hiện đại có nhiều sự thực cực ḱ phong phú nhưng không có diễn tŕnh của một cốt truyện và không thể kể được. Việc kể chuyện theo lối cũ rốt cuộc bao giờ cũng dẫn tới một kết thúc - mọi mâu thuẫn được giải quyết. Và sự thất bại của tiểu thuyết hiện thực là ở chỗ, suốt quá tŕnh của câu chuyện, nó cố gắng tŕnh bày thế giới như nó là, nhưng đến hồi kết thúc lại quay về với quan niệm cổ điển, làm độc giả yên tâm trước một thế giới như nú nờn là.
    Và như vậy, hiện thực đă không c̣n là hiện thực, hay nói cách khác chỉ c̣n là hiện thực trong lí tưởng, khát vọng của nhà văn. Trong khi đó thực tế đời sống lại vô cùng phong phú bí ẩn và phức tạp, chứa đựng vô vàn những khả năng, những biến hóa. Hiện thực không phải là những kết cục tốt đẹp mà Thượng đế, Chúa trời sẽ ban tặng cho con người hay gói gọn trong những chân lư đơn giản như thiện thắng ác, ở hiền gặp lành Con người cũng không giản đơn trong một vài tính cách nhất quán mà nhà văn gán cho họ. Theo cách đó, tiểu thuyết sẽ trở nên tẻ nhạt, nhàm chán và lỗi thời.
    Thế kỉ XX đă chứng kiến sự thay đổi của tiểu thuyết từ quan niệm đến thực tiễn sáng tác trong tinh thần gây hấn và phá vỡ những rào cản truyền thống. M.Kundera khẳng định, tiểu thuyết phải là sự khám phá cuộc sống ở phía sau “tấm màn”. “Một tấm màn huyền ảo, dệt bằng những huyền thoại, được treo trước thế giới. Cervantes cho don Quichotte ra đi và xé rách tấm màn. Thế giới mở ra trước chàng kị sĩ lang thang trong sự trần truồng hài hước của nó. Giống như một ngưũi đàn bà trang điểm trước khi vội vă đến cuộc hẹn đầu tiên với t́nh nhân, thế giới, khi nó chạy đến với chúng ta vào giờ khắc chúng ta sinh ta nú đó được trang điểm, đă đeo mặt nạ, đă được tiền diễn giải.Và không chỉ những kẻ pḥ chính thống bị mắc lừa mà ngay cả những kẻ nổi loạn hau háu đối nghịch với tất cả cũng thế, bọn họ nhận ra rằng ḿnh dễ bảo đến mức nào; bọn họ chỉ nổi loạn chống những ǵ được diễn giải (tiền diễn giải) là đáng để nổi loạn. Chính bằng cách xé rách tấm màn của tiền diễn giải mà Cervantes thiết lập thứ nghệ thuật mới mẻ này; hành dộng phá hủy của ông được phản chiếu và được kéo dài trong mỗi tiểu thuyết xứng danh là tiểu thuyết; đó là dấu hiệu bản nguyên của nghệ thuật tiểu thuyết” [27]
    Như vậy tiểu thuyết theo M. Kundera, phải vượt qua, bóc trần tất cả những sự thật diễn ra đằng sau tấm màn hào nhoáng che phủ thế giới. Chỉ có như vậy mới khám phá được những góc khuất, những éo le, những điều thường được che giấu, “ngụy trang” và hơn tất vả là sự truy tầm tới chiều sâu của ư thức con người trước những vấn đề xă hội. Và khi đó con người hiện ra với với khuôn mặt thật của ḿnh, phơi bày tất cả những hỉ, nộ, ái, ố, những mưu đồ, những dằn vặt, những hoang mang Một thế giới bên trong phong phú, bí ẩn, phức tạp, như chính hiện thực đời sống. Tiểu thuyết phải phá bỏ trật tự tuyến tính giả định của hiện thực bên ngoài để từ đó một trật tự khác của thế giới bên trong được nh́n thấy như chính nó. Một thế giới phi không gian, phi thời gian, bất định, năng động và vĩnh viễn bất khả đoán. Một thế giới của những khả năng, khả hữu, không phải của những câu chuyện đă kết thúc, đă trọn vẹn mà là có thể xảy ra, chưa thể hoàn thành.
    Như vậy, cảm hứng phơi bày hiện thực, yêu cầu về một hiện thực “chụp ảnh” của thời Banzăc đă dần được thay thế bằng cảm hứng khám phá những chiều sâu trong cuộc sống con người. Hiện thực không c̣n là điều ràng buộc, “trúi chặt” nhà văn vào những thứ có thật. Bởi nhà văn viết về hiện thực không phải nhằm mục đích mô tả hiện thực mà chủ yếu tŕnh bày trạng thái tồn tại của con người trong hiện thực. V́ thế một nguyên tắc quan trọng của tiểu thuyết hiện đại là t́m kiếm một phương thức phản ánh không lệ thuộc vào thực tại khách quan. Nghĩa là tạo ra những hiện thực mới, những hiện thực ảo, những vựng khụng - thời gian hư cấu chỉ tuân theo logic nội tại của nó. Ở đó cái thực, cái xác định và cái không thực, cái không biết có giá trị ngang nhau. Chúng ta cũng thấy điều đó trong các sáng tác Tiểu thuyết mới. Hiện thực đáng chú ư là hiện thực nằm trong trí nhớ, trong trí tưởng tượng của nhà văn. Ví dụ, nếu con chim là một đối tượng th́ người viết tiểu thuyết sẽ không t́m cách miêu tả lại nó cho y hệt giống, mà phải tạo ra một con chim mới với óc tưởng tượng, cảm giác và ghi nhận của ḿnh. Con chim này có thể hoàn toàn sai lệch với thực tế. Nhưng chính độ lệch ấy mới là điều đáng kể. Tư tưởng hậu hiện đại đă đi tới kết luận rằng, tất cả những ǵ được coi là hiện thực, trên thực tế không ǵ khác hơn chính là sự h́nh dung về nó.
    Cũng theo M.Kundera, tiểu thuyết phải thể hiện trong ḿnh “tinh thần của phức tạp”, “hiền minh của hoài nghi”. Tiểu thuyết thay v́ t́m câu trả lời hăy đặt ra câu hỏi, thay v́ làm độc giả an tâm hăy làm họ hoài nghi, băn khoăn. Nó nghiên cứu không phải hiện thực mà là hiện sinh, nghiên cứu ngay chính bản chất sự tồn tại của con người, cái ẩn mật bản ngă, là cuộc chiêm nghiệm đời sống con người trong cái bẫy thế giới này đang dần dà biến thành. Kundera không thể thỏa măn với quan niệm về tiểu thuyết như về sự phản ánh hiện thực. Với ụng, đú trước hết là “sự tổng hợp trí tuệ lớn”, tự do thu nhận vào ḿnh những suy tư về bất ḱ đề tài nào. Tiểu thuyết không chỉ là một thể loại (trong các thể loại văn học) mà là một giai đoạn một cấp độ mới trong tư duy nghệ thuật của con người về thế giới.
    So sánh với quan niệm về tiểu thuyết của các nhà lí luận thế kỉ XIX, chúng ta thấy có một sự thay đổi rơ rệt trong tư duy về thể loại. Bờlinxki và Turghenhep nhấn mạnh đến chức năng phản ánh của tiểu thuyết. “Tiểu thuyết là sự phản ánh nên thơ đời sống xă hội. Bên trong nó quan trọng là sự huyền bí của trái tim con người, sự tham gia của con người và những quan hệ của nó với tất cả mối quan hệ quần chỳng .” (Bờlinxki). Cùng thời, Turghenhiev (1818 – 1883), nhà tiểu thuyết vĩ cự phách của văn học Nga và Châu Âu cũng từng nêu một nguyên lư đồng dạng: “Tiểu thuyết là lịch sử cuộc sống”. Chính những quan niệm này đă thu hẹp phạm vi phản ánh của tiểu thuyết.
    Một khi tấm màn huyền ảo, dệt bằng những huyền thoại bị xé rách, thế giới hiện ra trong sự trần truồng và hài hước của nó cũng là lỳc thỏi độ của con người trước cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Không c̣n là khoảng cách sử thi với những giá trị tuyệt đối, không c̣n thái độ sùng bái, ngưỡng mộ tôn thờ. Con người nh́n thế giới với sự thản nhiên, thậm chí suồng să, bỡn cợt. Không c̣n là sự an tâm hay mặc nhiên thừa nhận đối với các giá trị đă được định giá. Theo M.Kundera, “cuốn tiểu thuyết có tính tra vấn, mỉa mai, thoát khỏi thiên kiến tư tưởng có thế giúp định hướng trong cái thế giới hiện nay của những sự thật bị bóp méo và những t́nh cảm bị trương ph́nh. Nếu như trữ t́nh với cảm hứng thiếu suy nghĩ chỉ làm cho tư tưởng bị tê liệt đi, th́ tiểu thuyết bằng “sự hiền minh của hoài nghi” sẽ đánh thức tư tưởng dậy, giúp hiểu ra sự phức tạp khôn cùng của cuộc sống”[26]. Kundera dành một vai tṛ hết sức quan trọng cho sự mỉa mai khi ông đối lập “cỏi cười ác quỷ” mang tính tra vấn khiêu khích và do đó đưa tới nhận thức với “cỏi cười thiên thần” mang tính phụ họa, tán dương dẫn đến sự cảm nhận sai lệch về thế giới. Ngay cả lịch sử một đối tượng đă được xỏc tớn và cần phải xem xét với thái độ thành kính nhất th́ ông vẫn cho rằng: “tiểu thuyết gia không phải là thằng hầu của những sử gia. Anh không thể kể về hay bàn về lịch sử nhưng khám phá những khía cạnh chưa biết tới của hiện hữu con người. Những biến động lớn lao của lịch sử đối với anh ta giống như cỏi đốn giọi bất th́nh ĺnh làm sáng tỏ nhưng khía cạnh ẩn giấu và vạch trần chúng ra ”[28]. Như vậy nhà văn tư duy lại lịch sử bằng phương pháp tiểu thuyết. Lịch sử cũng chỉ làm một cái nền đất để từ đó những tư tưởng hoài nghi đâm chồi và nảy nở.
    Quan điểm của Kundera cũng có nhiều điểm tương đồng với M.Bakhtin khi ông coi tiểu thuyết là thể loại tiếp xúc với khu vực hiện tại đang diễn ra, chưa định hỡnh, cũn nhiều biến đổi, do đú nú phá bỏ khoảng cách sử thi, nó dân chủ trong quan hệ thẩm mỹ với đối tượng, với độc giả.
    Tiểu thuyết với hành động xé rách tấm màn giả dối đă khám phá những điều mới mẻ, tra vấn con người ở mọi khía cạnh sâu kín. Hiện thực trong tiểu thuyết, v́ thế, được nh́n thấy như một nguồn sự kiện mang tính đa tầng, đa phương, ẩn khuất, phi lư, bất ngờ. Nguồn sự kiện này đ̣i hỏi ngôn ngữ văn chương phải mang tính đa nghĩa, phức tạp, biểu tượng và ẩn dụ. V́ thế mà người đọc được chủ động hơn, tích cực hơn trong vai tṛ đồng sáng tạo của ḿnh. Họ có thể thấy nó biến dạng: có thể như một triết lư hay như một ẩn ư. Nó từ chối mọi công thức diễn dịch và chỉ cho phép chúng ta cảm nhận bằng chính kinh nghiệm đọc trực tiếp và toàn thể để nắm bắt những biểu tượng biến thiên năng động. Cái nh́n mới về tiểu thuyết do đó chính là biểu hiện của nỗ lực kể cái không thể kể - những cái không xảy ra theo tŕnh tự thời gian, không xảy ra trong không gian cụ thể, những cái hỗn mang nằm sâu trong tiềm thức và vô thức, những cái nằm ngoài lư luận của hiện thực tỉnh táo.

    1.1.2. Tính chất tṛ chơi trong tiểu thuyết.
    M. Kundera khi bàn về nghệ thuật tiểu thuyết đó có một ư rất độc đáo: ở bên ngoài tiểu thuyết người ta sống trong thế giới của những điều khẳng định. Mọi người đều tin chắc ở lời nói của ḿnh. Trong lănh địa tiểu thuyết người ta không khẳng định bởi đây là lănh địa của “trũ chơi” và những giả thuyết. Một trong những tiếng gọi thôi thúc sự phiêu lưu của tiểu thuyết hiện đại, đú chớnh là tiếng gọi của tṛ chơi. Tiểu thuyết chính là một tṛ chơi, có điều đó không phải là một tṛ đùa vô tăm tích mà là nỗ lực biểu đạt nghió đầy chủ động của nhà văn, tức có dụng ư nghệ thuật và bộc lộ một quan niệm nhất định của tác giả về đời sống.
    Tính chất tṛ chơi nh́n từ phía những người tạo lập (nhà văn) có thể hiểu là những thủ pháp nghệ thuật mà họ sử dụng nhằm chuyển tải một thông điệp nào đó. Họ tự tạo ra tṛ chơi, đặt qui tắc và lôi cuốn khán giả vào trong đó. Hiểu như vậy, tác phẩm không c̣n là những bài học, triết lư lớn lao, những lời răn dạy mà chỉ là những nghi vấn, những băn khoăn, là những cuộc đối thoại không ngừng giữa nhà văn - tác phẩm - độc giả. Và nhà văn không c̣n phải gánh vác nhiệm vụ cao cả của một nhà đạo đức hay một nhà triết học hay một người chiến sĩ, “dạy bảo”, chỉ dẫn tận t́nh cho độc giả với vai tṛ của một kẻ “biết hết mọi thứ” mà tạo ra khoảng cách cần thiết để được phiêu lưu với câu chuyện, với nhân vật và khuyến khích sự đồng hành của độc giả.
    Ở phương diện tṛ chơi cấu trúc văn bản, nhà văn luôn nỗ lực t́m kiếm một h́nh thức lạ hóa ngôn từ, lạ húa cỏch triển khai văn bản, nhằm thay đổi sự tập trung hay phi tập trung của người đọc một cách thật biến hóa. Kết cấu hiền ḥa, đơn giản, thường đi theo trật tự tuyến tính thời gian trong tiểu thuyết truyền thống đă không c̣n hấp dẫn, đă không c̣n có thể chuyển tải những biến động, những xáo trộn phức tạp của đời sống hiện đại. Trong tiểu thuyết hiện đại thể hiện rơ tinh thần phân mảnh tan ră, mỗi chương mỗi đoạn là những mảnh đời sống vô cùng đa đạng và phức tạp và sự liên kết những phân mảnh đó ở chiều sâu của nó tạo nên một ư niệm nhất quán nào đó về thế giới. Những nỗ lực đổi mới này nhằm phá hủy cốt truyện truyền thống. Đồng thời tự nó cũng mang nghĩa biểu đạt sự phân ră, đổ vỡ của hiện thực đời sống đương đại. Con người sống trong vùng bủa vây của cô đơn, bất trắc, xô bồ, hỗn loạn, trong một thế giới không liên kết. Cách biểu đạt tinh thần phân mảnh này là một cố gắng của kĩ nghệ tự sự nhằm thể hiện cho được hiện thực đời sống đầy lo âu hôm nay.
    Tính tṛ chơi c̣n thể hiện ở phương diện nhân vật. Trong tiểu thuyết truyền thống, nhà văn giữ vai tṛ Thượng đế tối cao, thấu hiểu mọi lẽ, “chỉ đạo mọi đường đi nước bước” của nhân vật. Tiểu thuyết hiện đại là một cuộc phiêu lưu của nhà văn với chính nhân vật của ḿnh. M.Kundera từng viết: “Nhơn vật trong tiểu thuyết của tôi là những khả hữu vô thức của chính tôi. Đó là lí do v́ sao tôi yêu quí và khiếp sợ những nhân vật đó ngang nhau. Mỗi lần nhân vật vượt qua lằn ranh biên cương do chính tôi vạch ra. Chính lằn ranh bị vượt qua đó (bên kia lằn ranh, “cỏi ngó” của riêng tôi chấm dứt) là cái quyến rũ tôi nhất. Bởi bên kia lằn ranh là nơi khởi đầu cho cái ẩn mật quyển tiểu thuyết yêu cầu”[25]. Như vậy với Kundera nhân vật là một cái tôi thử nghiệm của tác giả. Và v́ thế mà tồn tại gần như một thực thể tương đối độc lập, chứa đựng những bất ngờ mà trong quá tŕnh viết nhà văn mới khám phá ra, không phải là biết tuốt, biết hết ngay từ đầu. Tính chất tṛ chơi mở ra phạm vi rộng lớn cho đối tượng nhân vật của tiểu thuyết, mang tính hư cấu cao. Thậm chí nhân vật là những đồ vật trong các tác phẩm của Tiểu thuyết mới. Qua cái nh́n, qua sự quan sát những đồ vật ấy mà người ta thấy h́nh bóng con người.
    Xét từ khía cạnh độc giả, tính tṛ chơi mang đến cho người đọc sự sảng khoái như bị bỏ bùa mê bởi sự độc đáo, mới lạ của h́nh ảnh, cái bất ngờ của t́nh huống, vẻ kinh ngạc của các sự kiện. Độc giả cũng là người đồng sáng tạo, ở trong một mối quan hệ tương tác với nhà văn và tác phẩm. Và tài năng của nhà văn là ở chỗ tạo ra cuộc chơi và dẫn người đọc tham gia vào cuộc chơi đó. Người đọc sẽ t́m thấy một đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết cũng như văn chương hậu hiện đại mà họ không thể thấy ở lối kể truyền thống đó là phương thức đa kết, phương thức chống lại sự kết thúc bằng cách ban cho một cốt chuyện rất nhiều hệ quả có thế có được.
    “Nhà văn Pháp gốc Trung Hoa Á Căn Đ́nh sáng tạo một cách viết tiểu thuyết hết sức mới lạ. Tác phẩm đồ sộ Rayuela (Nhảy ḷ c̣, 1963), chỉ về mặt h́nh thức cuốn tiểu thuyết cũng đă làm ta kinh ngạc. Sách gồm 155 chương. Trước khi vào tiểu thuyết là một “bản hướng dẫn” cho độc giả. Cuốn sách này chứa nhiều cuốn sách cựng lỳc nhưng hiển nhiên nhất là hai cuốn. Đọc giả được mời chọn một trong hai đề nghị sau đây: Cuốn thứ nhất có thể được đọc theo lối thông thường và chấm dứt ở cuối Chương 56. Độc giả có thể bỏ hẳn phần c̣n lại của cuốn sách mà không phải cảm thấy áy náy ǵ nữa. Cuốn thứ hai nên được bắt đầu đọc từ Chương 73 và rồi theo tŕnh tự được ghi chú ở cuối mỗi chương”.[63]
    Như thế Rayuela là một tiểu thuyết trong nó chứa ít nhất là hai cuốn tiểu thuyết: một cuốn dài 56 chương dành cho những người ít kiên nhẫn và đọc kiểu tiểu thuyết cũ để giải trí, một cuốn dài 155 chương dành cho người nhiều kiên nhẫn thích thí nghiệm cách đọc nhảy ḷ c̣. Ngoài ra dĩ nhiên nguời đọc có thể tự ḿnh sáng tạo những cách đọc khác. Như vậy với Rayuela, thế giới phải được liên tục định nghĩa lại và để làm đuợc điều đó, độc giả và nhà văn phải liên tục khám phá những gúc nhỡn mới.
    Trong tṛ chơi tiểu thuyết, nhà văn vừa viết truyện vừa biểu hiện thái độ tự phản tỉnh về lối viết của ḿnh. Sự nghi ngờ trở thành bạn đồng hành của tác giả v́ vậy độc giả luôn bị đánh động, luôn bị đẩy ra khỏi tiến tŕnh câu chuyện để nhận thức rằng đây chỉ là một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải phản ánh hiện thực ǵ cả. Độc giả vừa đọc truyện vừa được chứng kiến quá tŕnh suy nghĩ và viết lách của nhà văn. Trong cuốn Dans le labyrinthe(Trong mê cung, 1959), Robbe Grillet đă sử dụng kỹ thuật mô tả sự vật cực kỳ chính xác để dẫn người đọc đến một cảm giác an tâm như đi vào một tiểu thuyết hiện thực, nhưng kỳ thực đó chỉ là một cái bẫy và bất ngờ người đọc đă thấy ḿnh rơi vào một thế giới phi thực từ lúc nào. Là người có kinh nghiệm về kĩ thuật làm phim, Robbe Grillet ứng dụng cái nh́n qua ống kính vào tiểu thuyết để thực hiện cuộc đánh bẫy người đọc. Cuốn tiểu thuyết mở đầu như thể một ống kính đang thu h́nh khung cảnh tổng quát của một câu chuyện. Thế rồi ống kính hướng về một sự vật cụ thể, cận cảnh, nhích dần từ vật này đến vật khác và dừng lại để soi rọi chi tiết mỗi vật. Thế nhưng đến một lúc nào đó, khi ống kính trở với khẩu độ b́nh thường, người ta kinh ngạc khi thấy khung cảnh tổng quát đă hoàn toàn thay đổi thành một thế giới khác. Cứ thế người đọc sẽ liên tục rơi vào nhưng ngơ ngách của một mê cung không c̣n phân biệt được đâu là hiện thực, đâu là phi thực. Những câu chuyện trong tiểu thuyết hiện đại thường được trộn lẫn cái kinh hoàng và cái thần ḱ làm một, mỗi đoạn văn như một đồng tiền hai mặt nhưng là một đồng tiền đang xoay tít: thực/ảo, ngơy thơ/dó man, sự thực/phúng đại, ḥa tan vào nhau, khiến độc giả vừa đọc vừa hoang mang giữa cảm giác sợ hăi và thích thú.
    Tính chất tṛ chơi của tiểu thuyết có nguồn gốc từ những h́nh thức trào tiếu dân gian và lễ hội giả trang, tức là carnaval, gắn với cảm hứng giải thiêng. Đặc điểm của những ngày hội Carnaval chính là những ngày mà dân chúng được sống một đời sống thứ nh́, dựa trên cái cười. Đó là một ngày hội cười. Tất cả mọi người cùng cười. Cái cười Carnaval có tính phổ quát, là cái cười chung, không châm biếm riêng ai. Nó châm biếm tất cả kể cả người tham dự: cười người mà cũng cười ḿnh. Cái cười Carnaval có giá trị đối nghịch: nó vừa vui vẻ, hoan hỉ lại vừa nhạo báng chua cay, nó vừa phủ định vừa xác định nó vừa chôn cất vừa tái sinh. Nó tạo ra một không khí dân chủ, ở đó những sự thực được phơi bày.
    Nguyên nhân của tính tṛ chơi cũng bắt nguồn từ những quan niệm của nhà văn về cuộc sống, từ đặc điểm thể loại và đặc điểm của độc giả hiện đại. Tiểu thuyết là nghệ thuật về sự bất định của cuộc đời, về sự phi chân lư độc tôn, về tính đa nguyên chân lư của thế giới. Văn học đạt đến tư duy tiểu thuyết khi nó từ bỏ niềm tin về tuyến tính nhân quả, về tính tất định của cuộc đời và hiểu ra rằng ở đời có vô số chân lư cùng tồn tại đồng thời, chẳng cái nào phải hơn cái nào, chẳng cái nào là chính, là tuyệt đối, là cao cả, là độc tôn. Nhận thức về sự bất trắc ở đời đă tiềm ẩn từ xa xưa trong nghệ thuật, nhưng trước đây nó chỉ được coi như những tai nạn ngoại lệ lẻ loi. C̣n bây giờ đấy là quy luật phổ biến. Bất định là phổ biến. Tiểu thuyết nói theo cách nào đó chính là cuộc dũ tỡm măi măi cái bất định vô tận đó của số kiếp con người. Có một thời ḱ văn học dạy cho con người những chân lư độc tôn, tuyệt đối. Bây giờ với tiểu thuyết văn học nói với con người rằng chẳng có chân lư nào tuyệt đối cả, cuộc đời là một mớ chân lư tương đối mà những con người chia lấy cho nhau” (M.Kundera). Trong xă hội bùng nổ thông tin, toàn cầu hóa, lượng tri thức tăng vọt khiến mắt người không thể nhận thấy, phát hiện ra vạn vật với bao cách nh́n khác nhau có thể biện minh được. V́ vậy tiểu thuyết hiện đại khước từ thiên chức và sứ mệnh đi t́m chân lư, lư luận không c̣n có quyền uy để đưa ra những chuẩn mực. Tính tương đống tuyệt đối lại được xác lập. Mọi vật đều ngang nghĩa và ngang giá trong thế giới của cái hỗn độn, nơi mọi giá trị đều bị hạ bệ.
    Tiểu thuyết hoàn toàn không tin vào uy tín của những định hướng trước đó, dẫn đến cái gọi là văn học khủng hoảng niềm tin, khủng hoảng uy tín, bất tín nhận thức. Robbe Grillet từng viết: “Những ư nghĩa của thế giới, xung quanh chúng ta, không ǵ hơn là mang tính chất bộ phận tạm thời, thậm chí mâu thuẫn và luôn luôn được tranh căi. Làm thế nào mà tác phẩm nghệ thuật lại có thể tính chuyện minh họa cho một ư nghĩa biết trước, cho dù đó là ư nghĩa nào? Tiểu thuyết hiện đại như chúng ta đă nói lúc đầu là một sự kiếm t́m, nhưng là sự kiếm t́m mà chính nó dần dần tự sáng tạo ra những ư nghĩa của riêng nú”[14]. Và tṛ chơi như một phương thức tiêu biểu mà nhà tiểu thuyết muốn dùng để chống chọi với tính thể chế trật tự giả dối của thế giới.

    Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, đặc biệt là từ sau 1990 ngoài sự gia tăng mạnh mẽ các yếu tố huyền thoại, trào lộng, xu hướng ngắn gọn, dồn nộn cuộc thể nghiệm ở các tiểu thuyết triển khai từ quan niệm về tính tṛ chơi của văn chương. Theo Nguyễn Thị B́nh, nghệ thuật bao giờ chả có hư cấu bịa đặt nhưng hư cấu ở văn chương truyền thống là để thuyết phục người đọc tin vào tính chất thật của câu chuyện được kể. C̣n ở “trũ chơi tiểu thuyết” bây giờ sự hư cấu bịa đặt lại cố cho lộ liễu để vừa gián cách người đọc với câu chuyện vừa gây men ngờ vực trong họ. Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra cuộc chơi, bước vào cuộc chơi ấy độc giả có thể vừa thưởng thức vừa chứng nghiệm. Chơu Diờn bày ra tṛ chơi của ḿnh trong Người sông Mê. Tác phẩm không chia chương mà chia khúc, vừa theo tŕnh tự kiếp luân hồi theo quan niệm nhà Phật vừa ngẫu hứng vu vơ như lời hát Đồng dao: Kiếp ảo, Kiếp gốc, Kiếp thực, Gốc một - Nhất gốc, Gốc đôi – Hai gốc . Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thỏi cú một khế ước mà tác giả đă thảo ra trước bạn đọc: “cỏc anh nên đọc hết cuốn sách này. Đọc xong các anh có thể tin hoặc khụng, vỡ những chuyện tôi kể có thể rất nghiờm túc hoặc có thể hết sức tầm phào ”
    Cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Thị B́nh, những tiểu thuyết Việt Nam đương đại thử nghiệm tṛ chơi này có một số điểm đáng chú ư như sau:
    1. Một hiện thực không đáng tin cậy: Đó là bức tranh đầy tính ước lệ, không theo logic nhân quả. Hiện thực đú khụng để người ta tin mà để nguời ta nghi ngờ ngẫm nghĩ. Quan hệ dân chủ giữa văn học với hiện thực được xác lập dồng thời với việc khước từ sự áp đặt chân lư lên người đọc. Có thế thấy rơ điều này qua các tiểu thuyết: Thiên sứ, Người sông Mê, Thoạt ḱ thuỷ .
    2. Xây dựng những nhân vật dị biệt hoặc ḱ ảo: như một sự đối thoại hoặc từ chối quan niệm điển h́nh hóa của chủ nghĩa hiện thực truyền thống.
    3. Điểm nh́n trần thuật được giao cho những nhân vật dị biệt đú. Tớnh chủ quan của câu chuyện là một cách khẳng định kinh nghiệm cá nhân và làm tăng chất nghịch, hài cho tiểu thuyết.
    4. Sử dụng bút pháp nhại, trào lộng: Nhại không chỉ là một cách thức giải thiêng, làm mất giá đối tượng mà chính là quan niệm về bản chất dân chủ của thể loại.
    Có thể nói, tính chất tṛ chơi trong tiểu thuyết là một h́nh thức đề cao tính tự do dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật, là biểu hiện của ư thức nghệ thuật chuyển từ quan niệm về văn học như h́nh thức giáo dục tuyên truyền sang quan niệm về văn học như hoạt động sáng tạo, nhận thức và tác động vào cuộc sống mang lại sự thích thú cho con người.
    1.1.3. Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật
    Những quan niệm mới mẻ về tiểu thuyết tất yếu sẽ kéo theo sự đa dạng về bút pháp và phong cách nghệ thuật. Nếu như trong tiểu thuyết truyền thống, nguyên tắc tả thực được đề cao th́ trong tiểu thuyết hiện đại, do quan niệm cuộc sống như những “mảnh vỡ” nờn tớnh phi lư, phi thực đặc biệt được chú ư. Các nhà văn có ư thức qua cái phi lư để biểu đạt cái hữu lư, qua cái phi thực để khám phá chiều sâu của hiện thực. Hơn thế, hiện thực trong cuộc sống không đơn giản là hiện thực được “nhỡn thấy” mà quan trọng hơn là thứ hiện thực tự cảm thấy( Nguyễn Đăng Điệp). Tại đây, những chiều sâu tâm linh, những trạng thái phi thực được hiển thị qua tài năng hữu h́nh hoá cái thế giới vô h́nh của nhà văn. Trong tư duy nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại, có ba loại bút pháp được thường xuyên sử dụng là bút pháp trào lộng, bút pháp tượng trưng và bút pháp huyền thoại.
    Quan sát những tiểu thuyết gây được sự chú ư của người đọc trong hơn hai mươi năm đổi mới ( 1986 đến nay) như Thiên sứ ( Phạm Thị Hoài), Cơ hội của Chúa( Nguyễn Việt Hà), Đức Phật, nàng Savitri và tôi( Hồ Anh Thỏi) .ta đều thấy các tác giả sử dụng khá thuần thục các bút pháp trên. Thiên sứ Phạm Thị Hoài sử dụng rất nhiều yếu tố huyền thoại. Bé Hon là một thiên sứ mong muốn mang đến t́nh yêu thương cho con người. Thoạt đầu, bé làm cho mọi người mừng vui. Nhưng cuộc đời chật hẹp vật lộn với bao nhọc nhằn mưu sinh đă khiến cho người ta dần xa lánh thiên sứ. Xem ra, t́nh yêu là một thứ xa xỉ đối với cơi thế đầy vô cảm. Bé Hon ra đi giữa một ngày lạnh giá, bỏ lại sau lưng nhiệm vụ dang dở. Trong Cơ hội của Chúa, bút pháp trào lộng được sử dụng hiệu quả. Điều đó ám cả vào ngôn ngữ trần thuật: “ Gă bạn của Tâm là thành viên chính của ban giám định, sếp ruột của gă là Phó Chủ tịch tỉnh. Tiền mặt bạn ơi, hăy nói chuyện bằng tiền mặt. Gă hơi phờ phờ, khua cái đùi gà trước mặt Tâm. Nắng xế hè, đất Ái Châu có tiếng là đẻ ra những hào kiệt lắm mồm”[17;6]. Thuận cũng là nhà văn sử dụng bút pháp trào lộng sắc sảo: “Con My túc khụng vàng, mơ trở thành tài tử điện ảnh. Mười bốn tuổi cao một một sỏu lăm, ngực và mông nở, bụng mỏng dính. Mai Lan bảo kỷ lục của con My là chưa biết đi đó thớch mặc áo hở rốn. Xong lại bảo lỳc mỡnh chưa biết đi, chẳng có ǵ để diện, oách nhất là cỏi vỏy Đức Hạnh mặc gần rách mà vẫn chùm đầu gối. Liên cười. Mai Lan nghĩ một lúc nói: trẻ con nhà quê xếch - xi hơn trẻ con Hà Nội, lúc nào cũng chơi áo hở rốn với quần thủng đớt”[14, 57] Bút pháp trào lộng cũng là bút pháp chủ đạo trong Ba người khác của Tô Hoài, trong khi đó, Người sông Mê của Chơu Diờn lại ngấm đầy chất tượng trưng.
    Tuy nhiên, để tạo nên sự linh hoạt của mạch kể, nh́n chung các nhà tiểu thuyết thường xuyên pha trộn cách bút pháp và giọng kể khác nhau để tạo nên tính đa thanh của tác phẩm. Rơ ràng, những quan niệm mới về tư duy nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại đă ảnh hưởng đáng kể đến tiến tŕnh đổi mới tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. So với tiểu thuyết trước 1975, tiểu thuyết sau 1975 đă mới mẻ hơn về tư duy nghệ thuật và phong phú hơn về phương cách biểu hiện.
    1.2. Thuận trong bối cảnh đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong và ngoài nước.
    1.2.1. Tiểu thuyết trong nước – hành tŕnh t́m ṭi đổi mới từ 1975 đến nay
    Cùng với những đổi thay có tính chất bước ngoặt của lịch sử, văn học Việt Nam trong nước sau 1975 cũng có sự đổi mới rơ rệt. Người ta đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa và yêu cầu văn học phải được “cởi trúi”, thoát ra khỏi thứ văn học “phải đạo”. Hành tŕnh đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam cũng gắn liền với tiến tŕnh vận động của văn học dân tộc.
    Theo các nhà nghiên cứu, văn học Việt Nam ba mươi năm qua đă đi qua ba chặng đường, có sự tiếp nối không đứt đoạn: Từ 1975 đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến; từ 1986 đến đầu thập kỉ 90 là thời kỳ văn học đổi mới sôi nổi, mạnh mẽ, gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước; từ năm 1993 đến nay, văn học trở lại với những qui luật b́nh thường và hướng sự quan tâm hơn vào vấn đề cách tân nghệ thuật.
    Có thể nói, từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời ḱ hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp thể hiện rơ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương thức nghệ thuật và qui luật vận động của văn học. Ở nửa cuối thập kỉ 70, những năm liền ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, khuynh hướng sử thi vẫn được tiếp tục nhưng mờ nhạt dần với những tiểu thuyết , kí sự, hồi kí về chiến tranh , tiêu biểu như: Họ cùng thời với những ai (Thỏi Bá Lợi), Tháng Ba ở Tơy Nguyờn(Nguyễn Khải), Năm 75 họ đă sống như thế nào (Nguyễn Trớ Huơn), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oỏnh), Miền cháy(Nguyễn Minh Chơu)
    Tất nhiên bên cạnh việc tiếp tục mảng đề tài lịch sử, tái hiện khai thác “dữ liệu” từ cuộc kháng chiến chống Mĩ oanh liệt, văn xuôi sử thi sau 1975 cũng có những khác biệt nhất định so với trước. Nhà văn có tâm thế, điều kiện để nh́n lại quá khứ phân tích lí giải những chiến công rạng rỡ cũng như thấm thía những mất mát đau thương - hệ quả tất yếu của chiến tranh mà trước đây họ phải tạm quên đi hoặc né tránh. Một số cây bút cũng đă kịp thời phản ánh những bộn bề sau cuộc chiến, có niềm vui, hạnh phúc, được đoàn tụ, được tự do được sống trong ḥa b́nh, nhưng cũng có không ít những khó khăn phức tạp thậm chí cả những mâu thuẫn xung đột trong cuộc sống ở một đất nước mới hồi sinh, thống nhất (Những khoảng cách c̣n lại - Nguyễn Mạnh Tuấn, Miền cháy - Nguyễn Minh Chơu .). Bước vào những năm đầu thập kỉ 80, t́nh h́nh kinh tế - xă hội của đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Văn học cũng chững lại, không ít người lâm vào t́nh trang bối rối mất phương hướng trong sáng tác. Họ vẫn chưa thoát khỏi quán tính của ḍng chảy văn học thời trước, lúng túng trước một hiện thực mới, không c̣n chiến tranh, không c̣n tiếng súng, không c̣n máu đổ nhưng cũng không kém phần cam go, phức tạp muôn dạng h́nh, cùng với những đ̣i hỏi mới của người đọc. Nhưng đây cũng là thời điểm “lửa thử vàng” của những người cầm bút. Những t́m ṭi, trăn trở, suy tư thầm lặng mà mănh liệt ở một số nhà văn có tấm ḷng và ư thức trách nhiệm cao về nghề đă góp phần mở ra cho văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng những hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là cái hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức thế sự đang tồn tại nổi cộm, đ̣i hỏi văn học phải nhận thức khám phá.
    Từ đầu 1986 đến đầu những năm 90 là giai đoạn văn học đổi mới, tập trung vào mô tả hiện thực với tinh thần nh́n thẳng vào sự thật. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản chiếm ưu thế chủ đạo. Nhiều cây bỳt đó phơi bày những mặt trái c̣n bị che khuất, lên án những lực lượng, những thói quen, nếp sống, cách hành xử lạc hậu lỗi thời làm cản trở quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc chính đáng của con người cũng như sự phát triển của xă hội. Tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi ḍng cho khuynh hướng này và đă trở thành một sự kiện văn học nổi bật của những năm 1986 – 1987. Tiếp đó là một loạt các tiểu thuyết và truyện ngắn xuất hiện cuối thấp kỉ 80 và 90 như: Bến không chồng (Dương Hướng),Những thiên đường mù (Dương Thu Hương), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Khỏng Chiến tranh vẫn là một đề tài “núng” nhưng niềm tự hào rạng rỡ v́ chiến thắng đă nhường chỗ cho những hệ lụy đau buồn, những mất mát, hi sinh, những xót xa, đau đớn mà chiến tranh đă tác động đến mỗi con người, đến cả dân tộc. Những “ḥn vọng phu” trên khắp đất nước Việt nam, những tham vọng quyền lực chà đạp lên t́nh đồng chí đồng đội, những nỗi buồn dai dẳng của những thế hệ phải trải qua cuộc chiến ấy đều được thể hiện rơ trong Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam (Nguyễn Minh Châu), Thơn phơn tỡnh yờn (Bảo Ninh) Cỏc tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp lại phơi bày sự khủng hoảng của xă hội qua việc thay đổi các giá trị và lối sống (Tướng về hưu, Không có vua .). Những góc khuất lấp đáng sợ, tàn ác, lạnh lùng của con người ,những mảng tối phơi bày nhức nhối như một lời thức tỉnh. Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên b́nh diện thế sự - đời tư đă được mở ra ở nửa đầu những năm 80, nhiều cây bút đă đi vào thể hiện những khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phức tạp.
    So với những tác phẩm văn học trước đây, nhiệt t́nh phê phán của văn học giai đoạn này dữ dội hơn rất nhiều. Tuy vậy, cảm hứng phê phán cú lỳc cũng đẩy tới cực đoan. lệch lạc, nhiều cây bút bộc lộ một cái nh́n ảm đạm, hoài nghi.
    Sự xuất hiện cảm hứng sự thật, quả thực là một tất yếu nhưng cũng là điều tất yếu mà văn học phải vượt qua để t́m đến những chiều sâu mới. Người đọc chờ nhà văn qua những vận động xă hội phức tạp đó đưa đến cho họ những tổng kết nhân văn sâu sắc, lâu dài.
    Từ cuối những năm 90 đến nay, trong xu thế ổn định của xă hội, văn học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính b́nh thường nhưng không xa rời định hướng đổi mới theo hướng dân chủ hóa đă h́nh thành từ những năm 80. Nếu như trước đó, động lực thúc đẩy văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xă hội và khát vọng dân chủ, th́ khoảng mười năm trở lại đây, văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó. Vấn đề đặt ra không c̣n là viết như cái ǵ mà là viết như thế nào, như có người đă nói: “sỏng tạo nghệ thuật trước hết là sáng tạo h́nh thức”.
    Những thể nghiệm mạnh bạo để cách tân tiểu thuyết được các tác giả thực hiện trong hàng loạt tiểu thuyết gần đây: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Hồ Quư Li (Nguyễn Xuơn Khỏnh), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt ḱ thủy, Ngồi (Nguyễn B́nh Phương), Người sông Mê (Chơu Diên), Giàn thiờu (Vừ Thị Hảo), Cơi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), China town, T mất tớch (Thuận)
    Có thể nói tiểu thuyết Việt Nam là những nỗ lực thể nghiệm, có khi c̣n dang dở, khó đọc, lạ lẫm, những đặc điểm nổi bật là chúng đang nỗ lực khước từ truyền thống, có thể thấy điều đó qua mấy phương diện sau:
    1. Cách tân về qui mô, dung lượng:
    Không c̣n là những đại tự sự với qui mô lớn về nhiều mặt: số trang, nhân vật tiểu thuyết Việt Nam đương đại chống lại quan niệm truyền thống với những tác phẩm ngắn, có dung lượng vừa phải, như tiểu thuyết chưa đầy 80 trang của Thiên sứ, hay 127 và 162 trang giấy khổ nhỏ của Trí nhớ suy tàn, Thoạt ḱ thủy (Nguyễn B́nh Phuơng) Sự thu gọn dung lượng là kết quả của quan niệm đời sống như những mảnh vỡ và xă hội hiện đại bùng nổ thông tin. Sự khác biệt giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, giờ đây, không c̣n phân biệt ở dung lượng, ở nội dung bao quát những mảng hiện thực lớn cả bề rộng lẫn bề sâu mà ở “tớnh tiểu thuyết”, tức là khả năng truy tầm những giá trị bề sâu của con ngưũi trong cuộc sống phức tạp và hỗn độn này.
    2. Cách tân về cấu trúc
    Tiểu thuyết truyền thống bám vào cốt truyện, tác phẩm là diễn biễn của một câu chuyện có mở đầu có kết thúc theo một trật tự thời gian tuyến tính. Tiểu thuyết hiện đại là nỗ lực kể cái không thể kể, v́ thế mà cấu trúc tiểu thuyết là những mảnh vỡ rời rạc, nhiều khi không theo một quy luật nhân quả nào, là sự lắp ghép những mảng đời, mảng truyện khác nhau, là sự cắt dán của nhiều loại văn bản. Thoạt ḱ thủy của Nguyễn B́nh Phương có kết cấu đứt găy, nhảy cóc liên tục đan xen giữa vô thức và hữu thức, tô đậm cái bất lực của ngôn từ. Chinatown của Thuận là sự lồng ghép tiểu thuyết trong tiểu thuyết. Chân dung cát của Inrasara lại là những mảnh nhỏ cắt rời những ḥa vào nhau trong một gương mặt tinh thần Chăm đương đại. Câu chuyện khi th́ do nhân vật “tụi” (J’Man) kể, khi th́ được cắt dán bởi hồ sơ bệnh án, những đoạn trích sổ ghi chép, lịch làm việc hay một bài thơ ngẫu hứng Cú thể nói, những cách tân về cấu trúc tiểu thuyết vừa thể hiện quan niệm dân chủ trong cách nh́n nhận về nhà văn, về nghệ thuật, vừa tạo ra được những điểm nh́n phong phú về con người và thế giới.
    3. Cách tân về nhân vật
    Từ chối nhân vật điển h́nh, khắc họa nhân vật dị biệt, gia tăng tính phi lư huyền ảo, sử dụng h́nh thức giễu nhại .là hướng đi phổ biến trong việc xây dựng nhân vật của tiểu thuyết hiện đại. Độc giả bắt gặp những nhân vật ḱ lạ, không tiêu biểu cho bất ḱ ai, chỉ đại diện cho chính bản thân họ trong các tác phẩm tiểu thuyết, ví dụ như Mai Trừng (Cơi người rung chuông tận thế) có khả năng phát điện mỗi khi kẻ ác đến gần, linh hồn của Hoa, Hương, Khánh (Người sông Mê). Thiên sứ của Phạm Thị Hoài lại xây dựng một số nhân vật mang dáng dấp của nhân vật chức năng trong văn học huyền thoại dân gian (bé Hon, Qung lùn, Hoài). Con cú trong Thoạt ḱ thủy của Nguyễn B́nh Phương phải chăng là hiện thân cho sự cảnh báo về những chết chóc không lường trước được ở con người. Sự đa dạng về h́nh thức nhân vật là một trong những ch́a khóa giúp nhà văn mở cửa đi vào t́m hiểu “ẩn mật của bản ngó” con người.
    4. Ngôn ngữ gia tăng lượng thông tin và cá thể hóa cao độ
    Nếu cái nh́n đậm chất sử thi ở giai đoạn 1945 – 1975 đó tỡm tới một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ th́ cảm hứng thế sự ở giai đoạn này đ̣i hỏi thứ ngôn ngữ góc cạnh, nhiều sắc thái đời thường, suồng să trong giọng điệu, cú pháp linh hoạt mềm mại. Ngôn ngữ được “tiết kiệm”, “chăm súc” để tăng lượng thông tin và tính triết luận. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết cũng tăng cường tính đối thoại, thâu nạp các dạng thức lời nói của nhiều tầng lớp người trong xă hội, không c̣n sự “ỏp chế” của ngôn ngữ tác giả.
    1.2.2. Văn học ngoài nước - từ ḍng văn chương hoài niệm đến những bước chuyển ḿnh ḥa nhập.
    Dựa trên những yếu tố then chốt như: mốc các đợt di dân, sự khai sinh các tờ báo văn học, các nhà xuất bản . có thể phân chia sự phát triển của ḍng văn học ngoài nước làm ba thời ḱ: thời ḱ phôi thai từ năm 1975 đến 1981, thời kỳ phát triển từ năm 1982 đến 1990, thời kỳ ḥa hợp từ 1991 đến nay.
    Thời ḱ phôi thai chứng kiến sự ra đời của một loạt các tờ báo và những nhà xuất bản tạo điều kiện cho văn học ngoài nước phát triển, ví dụ như tờ Đất Mới, Hồn Việt, Văn học Nghệ thuật, nhà in Lá Bối, Đại Nam, Xuân Thu, Sống mới .Cỏc tác phẩm văn học chủ yếu tái hiện những kí ức, nỗi nhớ quê hương, nỗi đau ly cách. Bởi “không ai cần kí ức và bị ám ảnh bởi kí ức một cách day dứt cho bằng người lưu vong: kí ức không những là tài sản mà c̣n là bầu khí quyển trong đó người người lưu vong tồn tại” [42]. Thơ Cao Tần chan chứa kỉ niệm chốn quê nhà:
    “Đỏy túi nhỏ th́ đầy danh thiếp cũ
    Những tên người tên tỉnh đă xa
    Những ḍng vội ghi hẹn ḥ gặp gỡ
    Những đuờng quen không trở lại bao giờ
    .Cỏi túi nhỏ tưởng đầy ḷng ti tiện
    Hóa đem theo muôn vạn mảnh quê nhà .”
    Ngoài ra cũn cú những mất mát, lạc lơng khi tiếp xúc với miền đất mới trong các tác phẩm của Vơ Phiến (Nguyên vẹn, Ly Hương ) và một số tùy bút, hồi kớ kể lại những biến cố lịch sử của nước nhà cũng như chặng đường gian nan đến với miền đất mới. Nói chung văn học thời ḱ này tập trung phản ánh t́nh cảm, t́nh cảnh tha hương của những người con đất Việt xa xứ. Các nhà văn hầu như chưa có những đổi mới cách tân về nội dung cũng như h́nh thức.
    Từ năm 1982 đến năm 1990 có thể nói là thời ḱ phát triển vô cùng phong phú về mặt báo chí cũng như tác phẩm văn học. Sinh hoạt báo chí khởi sắc với sự hiện diện của Mai Thảo và tạp chí Văn chủ trương: “Hợp nhập trường ḱ vào đại thể quê hương. Vào vận nạn đất nước”. Sau này có tờ Làng Văn, Văn Học .đó góp phần hỗ trợ đắc lực cho văn học ngoài nước. Nội dung thơ văn thời ḱ này gắn với lớp nhà văn đă trải qua nhiều biến động cũng với những đổi thay của lịch sử nước nhà, kí ức của họ mang nhiều đau thương và thậm chí có cả những thù hận. Một loạt những cuốn hồi kớ, bỳt kớ và tiểu thuyết lịch sử ra đời gắn liền với những tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Mộng Giác, Cao Xuân Huy Họ tạo ra một quê hương riêng, vẫn nặng trĩu những ám ảnh quá khứ. Nhà văn Mai Thảo có viết: “Người ta không thể sống hoài bằng trí nhớ. Hắn thừa hiểu vậy. Nhưng chân trời mới nh́n thấy nào cũng vẫn từ một chân trời trí nhớ”[52]. Nguyễn Bá Trạc cũng đồng t́nh: “Thực ra bạn chỉ là một người Việt Nam âu sầu, bước đi đâu cũng như bước lê trong dĩ vóng”[60]. C̣n Nguyễn Mộng Giỏc “luụn luụn cú nỗi khát khao được viết ghi lại những kinh nghiệm của ḿnh với tư cách là một chứng nhân lịch sử”.[16]
    Qua những h́nh ảnh khi tầm thường, khi dă man, bi tráng, khi trào lộng, xót xa trong Mùa biển động, Nguyễn Mộng Giỏc đó vẽ được thực trạng miền Nam sau ngày thống nhất đất nước, gợi lại những băn khoăn, đánh thức những nghi vấn, truyền cho người đọc những nỗi hoang mang, khắc khoải. Nguyễn Mộng Giác chừng như đă giải toả cái thế chân vạc của đất nước: trong chiến tranh, thắng, bại, lừng khừng đều đưa đến thất bại. Sau chiến tranh, hoà b́nh chỉ là một mặt trận khác: mặt trận của thanh toán, của ơn oỏn giang hồ, và con người chắc c̣n lâu lắm mới có thể khâu vá lại những vết thương, những đợt sóng ngầm, những cơn băo nổi trong tâm hồn mưng mủ.
    Ở giai đoạn này không chỉ có những đóng góp tích cực. Bộ mặt tiêu cực của nó là vạch nên một thực tại đen tối về đất nước, thúc đẩy những phong trào đối kháng, chống lại đất nước.
    Như vậy có thể thấy trước 1990, ḍng văn học ngoài nước mang diện mạo của kí ức, hoài niệm, gắn liền với các vấn đề chính trị, xă hội, kinh tế và văn hóa. Và đối với các nhà văn, viết là để giăi bày những nỗi niềm xa xứ, để tái tạo kí ức Vấn đề kĩ thuật, nghệ thuật viết hầu như chưa được chú ư. Họ hài ḷng với kĩ thuật và quan niệm thẩm mĩ quen thuộc. Hầu như không có sự bứt phá.
    Từ sau 1990, với những chính sách mới về kinh tế - xă hội, khoảng cách giữa Việt Nam và cộng đồng người Việt lưu vong được xích lại gần hơn. Họ có thể về thăm lại không gian kỉ niệm, nơi chôn rau cắt rốn của ḿnh, trong một tâm trạng thoải mái, cởi mở. Và “đối diện với hiện thực ấy” họ phải “tỡm cỏch tỏi cấu trúc kí ức”, “tơm lớ hoài cảm càng lúc càng phôi pha, ám ảnh chính trị càng lúc càng nhạt dần”, “giới cầm bút càng tập trung vào lĩnh vực nghệ thuật và thẩm mĩ, từ đó, họ càng dễ tiếp nhận những trào lưu mới chung quanh hơn” [42]. Thực ra chủ trương ḥa hợp dân tộc đă được nhà văn Nhật Tiến khơi mào từ năm 1985 khi ra mắt tập truyện ngắn Một thời đang qua: “Người cầm bút lưu vong phải tự giải phóng ḿnh để t́m lại chân trời tự do sáng tạo”, can đảm nói lên thực tại đổi mới của quê hương. Khi biến cố Đông Âu xảy ra, khuynh hướng ḥa hợp dân tộc chiếm ưu thế, văn học ngoài nước chuyển ḿnh bước vào một giai đoạn mới. Một số tác giả đi tiên phong như Nhật Tiến, Đỗ Mạnh Trinh, Đỗ Khiờm .
    Những tạp chí văn học mới ra đời, chủ trương cách tân triệt để. Các cuộc tranh luận về văn học cũng bùng nổ dữ dội. Các cây bút hào hứng và nghiêm túc tham gia ṿng xoay của những thử nghiệm, cách tân trong sáng tỏc. Cỏc nhà văn không chỉ “quẩn quanh bờn kớ ức” mà mở rộng phạm vi ng̣i bút, khám phá lí giải nhưng ẩn ức, những mảnh vỡ những éo le phức tạp của con người trong đời sống hiện đại với những thử nghiệm từ hậu hiện đại đến tân h́nh thức. Những gương mặt như Phạm Thị Hoài, Lê Minh Hà, Mai Ninh, Thuận , .tiờu biểu cho những nỗ lực cách tân, mang đến sức sống mới cho văn học ngoài nước cũng như văn học Việt Nam nói chung.
    1.3. Hành tŕnh nỗ lực cách tân tiểu thuyết của Thuận
    Xuất hiện khi những đột phá về nhận thức xă hội, quan niệm văn chương, sự đổi mới lối viết, các thể nghiệm h́nh thức trần thuật không c̣n quá lạ lẫm ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có thể nói đó là một điều thuận lợi nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn, đ̣i hỏi Thuận phải có những bước đi mới không lặp lại những người đi trước và không lặp lại chính ḿnh.


    tiểu thuyết của ThuậnMỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Có thể nói, nỗ lực đổi mới không ngừng là hướng đi chủ yếu của văn học Việt Nam sau 1975 và đú chớnh là một trong những nguyên

    Download



    Thêm vào bộ sưu tầm

    Thông tin tài liệu[TABLE=width: 280]
    [TR]
    [TD]Chuyên mục:[/TD]
    [TD]Văn học[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Trường:[/TD]
    [TD]Đại học khoa học xã hội và nhân văn -ĐHQG HN[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Ngày tạo:[/TD]
    [TD]15/10/2012[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]




    Tài liệu gợi ý

    “Đắm thuyền” trong mối tương quan với các tiểu thuyết và truyện ngắn của .
    Bức tranh thiên nhiên trong thơ của Xecgây Êxênin
    Vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì trong dạy học Tấm Cám nhằm phát huy .
    Sự chuyển thể từ truyện ngắn sang kịch bản Điện ảnh trong một số tác phẩm .
    Nghiên cứu Đoàn Thị Điểm qua Đoàn Thị thực lục
    Chủ nghĩa Hiện sinh ở Miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết)
    Vận dụng phương pháp đọc sáng tạo vào dạy học bài thơ sóng của xuân quỳnh
    Chữ “ nhân” trong Luận ngữ. Từ tư tưởng “ nhân” của Khổng tử đến tư tưởng “ .
    Đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh .
    Hình tượng cái tôi Nguyễn Tuân qua thể văn tùy bút
     
Đang tải...