Tiểu Luận Tiểu luận Môn Lý thuyết Tài Chính Tiền tệ

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING
    KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC










    TIỂU LUẬN MÔN HỌC
    LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

    ĐỀ TÀI CHỌN LỰA: “PHÂN TÍCH CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC
    VÀ QUẢN LÝ KINH TẾ Ở VIỆT NAM”











    GVHD: T.S NGUYỄN THỊ MỸ DUNG
    HVTH: PHẠM HOÀNG THÔNG
    Lớp: Cao học KT-TC NH2












    TP Hồ Chí Minh 2012

    Mục lục

    Lời mở đầu
    Phần I : Lý thuyết chung về chức năng của tiền tệ.
    1. Khái quát về sự ra đời của tiền tệ
    2. Cơ sở lý luận, đặc điểm chung và chức năng tiền tệ
    2.1. Vai trò của tiền tệ
    2.2. Các hình thái tiền tệ
    2.3. Bản vị tiền tệ
    2.4. Khối tiền tệ
    2.5 Các chức năng của tiền tệ

    Phần II: Phân tích các chức năng của tiền tệ.
    2.1 Chức năng làm thước đo giá trị.
    2.2 Chức năng làm phương tiện lưu thông.
    2.3 Chức năng làm phương tiện thanh toán.
    2.4 Chức năng làm phương tiện cất trữ.
    2.5 Chức năng làm tiền tệ thế giới.

    Phần III: Các chức năng của tiền tệ trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam.
























    Lời mở đầu

    Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài .Nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng (Cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung - cầu mới về tiền trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
    Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh tiền tệ cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ thống tiền tệ phải tuân thủ và chính sách tiền tệ phải theo đuổi.
    Xét về toàn cảnh thị trường tài chính thế giới trong những năm qua thì bức tranh thị trường tài chính khá sáng sủa, các khoảng tối đã bị thu hẹp và nhường chỗ cho những khoảng sáng. Thế giới đã từng chứng kiến sự hồi phục nhanh chóng của các nền kinh tế từ châu Á, châu Âu và Mỹ sau những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á diễn ra giữa năm 1997 chắc chắn còn là nỗi ám ảnh đối với nhiều người.
    Bước vào thế kỷ mới, những năm 2000, năm bản lề của sự phát triển và hưng thịnh, Việt Nam - con rồng châu Á xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
    Qua đó tôi xin mạnh dạn trình bày tiểu luận môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài: “PHÂN TÍCH CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ KINH TẾ Ở VIỆT NAM”.
    Tiểu luận gồm 3 phần:
    Phần I : Lý thuyết chung về chức năng của tiền tệ.
    Phần II: Phân tích các chức năng của tiền tệ.
    Phần III: Các chức năng của tiền tệ trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam.















    Phần I : Lý thuyết chung về chức năng của tiền tệ.
    1. Khái quát về sự ra đời của tiền tệ
    Mọi người đề biết tiền tệ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội, tuy nhiên, khó có thể tìm ra một khái niệm thống nhất về tiền tệ. Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Tiền tệ ra đời là một tất yếu khách quan từ sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá (nềnkinh tế ­ xã hội). Tiền tệ thực hiện các chức năng giúp cho sản xuất ­ tiêu dùng hàng hoá phát triển và vì vậy mà trở thành một trong các các công cụ hữu hiệu để tổ chức và quản lý nền kinh tế.
    2. Cơ sở lý luận, đặc điểm chung và chức năng tiền tệ
    2.1.Vai trò của tiền tệ
    Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở ba mặt:
    -Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa. C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hàng sản xuất hàng hóa nếu như không có tiền và sự vận động của nó.
    Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông là cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu thông tiến hành một cách trôi chảy.
    -Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ không những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
    -Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng.
    Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó.
    2.2.Các hình thái tiền tệ
    2.2.1.Hóa tệ : Hóa tệ là loại tiền tệ bằng hàng hóa. Đấy chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Trong các loại hàng hóa được dùng làm tiền tệ được chia làm hai loại: hàng hóa không phải kim loại (non metallic commodities) và hàng hóa kim loại (metallic commodities). Do vậy, hóa tệ cũng bao gồm hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại:
    2.2.1.1.Hóa tệ không kim loại: Tức là dùng hàng hóa không kim loại làm tiền tệ.
    2.2.1.2.Hóa tệ kim loại Tức là lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng làm tiền tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc
    2.2.2.Tín tệ : Tức là loại tiền mà bản thân nó không có giá trị, song nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dùng. Tín tệ gồm hai loại: Tín tệ kim loại và tiền giấy.
    2.2.2.1.Tiền kim loại
    Tiền kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chỗ: Trong hóa tệ kim loại giá trị của kim loại làm thành tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền, còn ở tín tệ kim loại, giá trị chất kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có liên hệ gì với nhau, có thể gắn cho nó một giá trị nào cũng được
    2.2.2.2.Tiền giấy: Tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.
    - Tiền giấy khả hoán: là một mảnh giấy được in thành tiền tiền và lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta không‎ gửi tại ngân hàng.
    - Tiền giấy bất khả hoán là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Đấy là loại tiền giấy mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng.
    2.2.3. Bút tệ : Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ được tạo ra khi phát tín dụng thông qua tài khoản tại ngân hàng,do vậy, bút tệ không có hình thái vật chất, nó chỉ là những con số trả tiền hay chuyển tiền thể hiện trên tài khoản ngân hàng. Thực chất, bút tệ là tiền phi vật chất, nhưng nó cũng có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng trong thanh toán qua những công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền
    2.2.4. Tiền điện tử : Tiền điện tử là là một hệ thống cho phép người sử dụng có thể thanh toán khi mua hàng hoặc sử dụng các dịch vụ nhờ truyền đi các con số từ máy tính này tới máy tính khác. Tiền điện tử tồn tại dưới hình thức tài khoản trong ngân hàng, và do ngân hàng thương mại tạo nên. Tiền điện tử ra đời với các phương tiện thanh toán như séc, lệnh chuyển tiền.
    2.3. Bản vị tiền tệ
    Khi nói đến chế độ tiền tệ tức là nói đến hệ thống tổ chức lưu thông tiền tệ của một nước do pháp luật quy định, trong đó các nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ được kết hợp thành một khối thống nhất. Chế độ tiền tệ được cấu thành bởi các yếu tố sau:
    -Bản vị tiền tệ: chính là cái được sử dụng làm căn cứ để định giá đồng tiền. Có thể chọn một kim loại nào đó hoặc có thể lấy ngoại tệ hay sức sản xuất trong nước để làm bản vị tiền tệ.
    -Đơn vị tiền tệ: mỗi một quốc gia có một đơn vị tiền tệ khác nhau, ví dụ ở Việt Nam là “đông”, ở Mỹ là “dollar”
    -Công cụ lưu thông tiền tệ: là những phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán được sử dụng, chẳng hạn như: tiền giấy, tiền tín dụng, tiền xu
    Trong lịch sử tiền tệ, kể từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, các nước đã trãi qua nhiều chế độ bản vị tiền tệ khác nhau, cụ thể là:
    2.3.1. Chế độ đơn kim bản vị
    Là chế độ tiền tệ trong đó chỉ có một kim khí, vàng hoặc bạc, được tự do đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn. Tự do đúc thành tiền nghĩa là mọi người dân có thể biến đổi những thỏi kim khí thành những đồng tiền bằng cách đem đến nơi đúc tiền. Khả năng miễn trái vô hạn, nghĩa là bắt buộc mọi người phải nhận tiền kim khí pháp định, mặc dù số lượng là bao nhiêu. Ở nước nào sử dụng bạc làm bản vị, người ta gọi là đơn kim bản vị bạc, nước nào sử dụng vàng làm bản vị, người ta gọi là đơn kim bản vị vàng.
    2.3.2. Chế độ lưỡng kim bản vị
    Là chế độ tiền tệ trong đó có hai loại kim khí vàng và bạc được đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn. Có một giá trị pháp định giữa giá trị tiền tệ của vàng và bạc.
    2.3.3. Các chế độ vàng biến thể
    Kể từ khi tiền giấy trở nên thôg dụng, chủ yếu là tiền giấy khả hoán, còn đồng tiền vàng ngày càng ít lại. Thì kim bản vị vàng nguyên thủy biến thể qua một vài hình thái: chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thoi, chế độ bản vị hối đoái vàng.
    -Chế độ bản vị tiền vàng: là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức.
    -Chế độ bản vị vàng thoi hay hay là chế độ kim định bản vị, theo chế độ này tiền giấy không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lượng tiền giấy nhất định mới đổi được một thoi vàng.
    -Chế độ bản vị hối đoái vàng hay là chế độ kim hoàn bản vị. Đấy là chế độ trong đó tiền giấy không được đổi trực tiếp ra vàng, muốn chuển đổi ra vàng phải thông qua một đồng tiền trung gian khác.
    2.3.4. Chế độ ngoại tệ bản vị
    Chế độ ngoại tệ bản vị là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một nước được định nghĩa theo một ngoại tệ nhất định, thường là ngoại tệ mạnh.
    Khác với chế độ bản vị hối đoái vàng, ngoại tệ bản vị không có liên hệ gì với vàng. Ngoại tệ mạnh được dùng làm bản vị có thể không chuyển đổi ra vàng theo một giá cố định như trong bản vị hối đoái vàng. Ở chế độ ngoại tệ bản vị, chỉ có sự liên hệ giữa đơn vị tiền tệ này với đơn vị tiền tệ khác được dùng làm bản vị tiền tệ theo một giá trị chính thức cố định. Đơn vị ngoại tệ mạnh được chọn là để làm phương tiện thanh toán trong các cuộc giao dịch quốc tế.
    *Bản vị dollar: Nền tảng vật chất của đồng dollar là nền kinh tế của Mỹ. Giá trị của dollar được chính phủ Mỹ mà đại diện là ngân hang trung ương Mỹ điều tiết và duy trì ổn định. Đồng dollar là đồng tiền mạnh, có giá trị ổn định, thuận tiền trong thanh toán quốc tế, do vậy nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nhiều nước đã gắn đồng tiền nước mình với dollar, còn được coi là theo bản vị dollar.
    2.3.5. Bản vị lương thực
    Theo quan điểm bản vị lương thực thì giá trị đồng tiền sẽ được đảm bảo nếu giá lương thực ổn định.
    2.3.6. Bản vị hàng hóa
    Nếu như bản vị vàng gắn đơn vị tiền tệ với một lượng vàng nhất định, thì bản vị hang hóa lại gắn tiền với hàng hóa.
    Bản vị hàng hóa hay đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa đã xuất hiện và được áp dụng tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thông qua hệ thống thương nghiệp nhà nước và hệ thống giá nhà nước, đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa cung cấp, thậm chí theo nhiều nhóm hàng. Bạn đường của hệ thống này là chế độ tem phiếu.
    2.4. Khối tiền tệ
    Khối tiền tệ M1: Tiền mặt, Tiền gửi không kỳ hạn
    Khối tiền tệ M2: M1, Tiền gửi tiết kiệm, Tiền gửi định kỳ tại ngân hàng
    Khối tiền tệ M3: M2, Các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác
    Khối tiền tệ L: M3, Trái phiếu kho bạc ngắn hạn, Trái phiếu tiết kiệm dài hạn của kho bạc, Thương phiếu, Các thuận nhận của ngân hàng.
    Từ khối tiền tệ M1 đến khối tiền tệ L số lượng các thành phần tăng dần, tuy nhiên tính lỏng (khả năng thanh khoản) của các yếu tố này giảm dần.
    Đối với Việt Nam hiện nay ta có sơ đồ sau:
    [TABLE]
    [TR]
    [TD]M1[/TD]
    [TD]M2[/TD]
    [TD]M3[/TD]
    [TD]L[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]- Tiền mặt
    - Tiền gửi không kỳ hạn[/TD]
    [TD]M1 +
    - Tiền gửi tiết kiệm
    - Tiền gửi có kỳ hạn
    - Kỳ phiếu
    - Trái phiếu do Ngân hàng phát hành[/TD]
    [TD]M2 + Các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác[/TD]
    [TD]L=M2[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    2.5 Các chức năng của tiền tệ
    Khi đề cập đến vấn đề chức năng của tiền tệ, các nhà kinh tế học đã cho rằng tiền tệ có ba chức năng thước đo giá trị, trung gian trao đổi và bảo toàn giá trị. Tuy nhiên, cũng có một số nhà kinh tế học thêm vào chức năng thứ tư: làm phương tiện thanh toán hoàn hiệu. Theo Mác, khi giả định vàng làm hàng hóa tiền tệ, ông đã cho rằng tiền có năm chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới. Trãi qua quá trình phát triển, khoa học tiền tệ không ngừng phát triển, trong nền kinh tế hiện đại các chức năng ban đầu của tiền tệ vẫn có ‎ nghĩa nhất định.
    * Chức năng làm thước đo giá trị.
    * Chức năng làm phương tiện lưu thông.
    * Chức năng làm phương tiện thanh toán.
    * Chức năng làm phương tiện cất trữ.
    * Chức năng làm tiền tệ thế giới.

    Phần II: Phân tích các chức năng của tiền tệ.
    2.1.Chức năng thước đo giá trị
    Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi tiền tệ đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác.
    Chúng ta đo lường các giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như chúng ta đo khối lượng bằng kg hoặc đo khoảng cách bằng km. Để thấy vì sao chức năng này lại quan trọng, chúng ta nhìn vào nền kinh tế đổi chác, trong đó tiền không thực hiện chức năng này. Nếu nền kinh tế chỉ có ba mặt hàng, ví dụ: vải, gạo, muối thì chỉ có ba giá để có thể trao đổi thứ này với thứ khác: giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kiliogram gạo, giá của một mét vải tính bằng bao nhiêu kilogram muối và giá của một kilogram gạo tính bằng bao nhiêu kilogram muối. Nếu có mười mặt hàng, chúng ta sẽ có 45 giá để trao đổi mặt hàng này với mặt hàng khác, với 100 mặt hàng chúng ta có đến 4950 giá, với 1.000 mặt hàng có 499.500 giá.
    Công thức cho chúng ta biết số giá ta cần khi có N mặt hàng: N(N -1)/2
    Hãy tưởng tượng ra sự khó khăn đến thế nào nếu ta đi mua sắm trong một siêu thị với 1000 mặt hàng khác nhau. Khi quyết định giá của vật này rẻ hay đắt hơn giá cuả cái kia rất khó khăn vì giá của 1 kilogam gà được đo bằng 5 kilogam thóc, trong khi 1 kilogam cá được định giá băng 3 kilogam cà chua. Chắc chắn rằng bạn có thể so sánh giá của tất cả các mặt hàng, bảng giá của một mặt hàng sẽ phải kê ra 999 giá khác nhau và thời gian dung để đọc chúng rất lâu làm cho chi phí giao dịch tăng đáng kể.
    Giải pháp cho vấn đề này là đưa tiền vào nền kinh tế và dùng tiền để thể hiện giá ch tất cả các mặt hàng, như vậy chúng ta có thể dễ dàng so sánh được giá gạo, vải hay muối. Nếu chỉ có 3 mặt hàng trong nền kinh tế thì điều này sẽ không có ‎ nghĩa lớn so với nền kinh tế đổi chác vì chúng ta chỉ có 3 giá khi giao dịch. Tuy nhiên, với số lượng hàng hóa lớn hơn thì tầm quan trọng của tiền lúc này sẽ rất lớn, với 10 mặt hàng bây giờ chúng ta chỉ cần 10 giá, 100 mặt hàng chỉ cần 100 giá. Tại siêu thị có 1000 mặt hàng thì nay chỉ cần 1000 giá để xem chứ không phải 499.500 giá.
    Số lượng giá trong một nền kinh tế đổi chác và số lượng giá trong một nền kinh tế dùng tiền tệ được thể hiên qua bảng sau:
    [TABLE="width: 607"]
    [TR]
    [TD]SỐ LƯỢNG MẶT HÀNG[/TD]
    [TD]SỐ LƯỢNG GIÁ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỔI CHÁC[/TD]
    [TD]SỐ LƯỢNG GIÁ TRONG NỀN KINH TẾ SỬ DỤNG TIỀN TỆ[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]3[/TD]
    [TD]3[/TD]
    [TD]3[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]10[/TD]
    [TD]45[/TD]
    [TD]10[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]100[/TD]
    [TD]4950[/TD]
    [TD]100[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]1.000[/TD]
    [TD]499.500[/TD]
    [TD]1.000[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]10.000[/TD]
    [TD]49.995.000[/TD]
    [TD]10.000[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền để đo lường làm giảm hẳn chi phí thời gian để giao dịch trong một nền kinh tế, nhất là giảm hẳn số giá cần phải xem xét. Cái lợi của chức năng này của tiền tăng lên khi nền kinh tế trở nên phức tạp hơn.
    C.Mác đã cho rằng để thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ phải là tiền thực – tiền có đủ giá trị nội tại. Để đo lường và biểu hiện giá trị các hàng hóa, có thể sử dụng tiền trong ‎ niệm và cần phải có tiêu chuẩn giá cả, tiêu chuẩn giá cả là đơn vị đo lường tiền tệ của mỗi quốc gia bao gồm hai yếu tố: tên gọi của đơn vị tiền tệ và hàm lượng kim loại qu‎ trong một đơn vị tiền tệ.
    Với việc đảm nhận chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã giúp cho mọi việc tính toán trong nền kinh tế trở nên đơn giản như tính GNP, thu nhập, thuế khóa, chi phí sản xuất, vay nợ, trả nợ, giá trị hàng hóa, dịch vụ
    2.2.Chức năng phương tiện lưu thông
    Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa.
    Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật dần dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi gián tiếp thực hiện thông qua trung gian của tiền tệ. Hình thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, buôn bán trở nên dễ dàng, sản xuất thuận lợi. Có thể ví tiền tệ như một chất nhớt bôi trơn guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi mức dộ tiền tệ hóa ngày càng cao thì hoạt động giao lưu kinh tế càng được diễn ra thuận lợi, trôi chảy.
    Nghiệp vụ trao đổi gián tiếp thực hiện qua trung gian của tiền tệ, gồm:
    - Thứ nhất: bán hàng để lấy tiền:H-T
    - Thứ hai : dùng tiền để mua hàng T – H

    Hay H - T - H
    Hàng hóa - Tiền - Hàng hóa
    Nhưng thỉnh thoảng hai vế này không di liền với nhau. Tiền tệ là phương tiện làm trung gian trao đổi dần dần trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và được ưa chuộng. Chính sức mua của tiền tệ đã quyết định điều này. Do vậy muốn tiền thực hiện tốt chức năng phương tiện trao đổi đòi hỏi hệ thống tiền tệ của một quốc gia phải có sức mua ổn định, số lượng tiền tệ phải đủ liều lượng đáp ứng nhu cầu trao đổi trong mọi hoạt động kinh tế, hệ thống tiền tệ phải có đủ các loại tiền, đáp ứng kịp thời, nhanh chóng nhu cầu giao dịch của dân chúng.
    2.3.Chức năng phương tiện thanh toán
    Quá trình lưu thông hàng hóa phát triển, ngoài quan hệ hàng hóa-tìền tệ, còn phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa, nộp địa tô bằng tiền. Trong những trường hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán.
    Như vậy, khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hóa, mà là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa.
    Tiền tệ khi thực hiện chức năng làm phương tiện chi trả đã tạo ra khả năng làm cho số lượng tiền mặt cần thiết cho lưu thông giảm đi tương đối vì sự mua bán chịu, thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau.
    Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền phải là tiền mặt - vận động từ người mua chịu hay đi vay sang người bán chịu hay cho vay; tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ.
    2.4.Chức năng phương tiện cất trữ
    Tiền tệ chấp hành chức năng phương tiện tích lũy khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu chi dùng trong tương lai.
    Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện tích lũy dưới hình thái hiện vật, hình thái này không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu thông và ít sinh lời.
    Khi tiền tệ xuất hiện, người ta dần dần thay thế tích lũy dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích lũy dưới dạng tiền tệ. Hình thái này có nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy dưới hình thái tiền tệ có nhược điểm là có thể dễ mất giá khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, để tiền tệ thực hiện được chức năng phương tiện tích lũy đòi hỏi hệ thống tiền tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua.
    Chính vì thế bản thân đồng tiền phải có giá trị tức là tiền vàng.
    2.5.Chức năng tiền tệ thế giới
    Tiền tệ thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền tệ thực hiện bốn chức năng thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy ở phạm vi ngoài quốc gia, nói cách khác là đồng tiền của một nước thực hiện chức năng tiền tệ thế giới khi tiền của quốc gia đó được nhiều nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước họ.
    Tóm lại, điều kiện quan trọng nhất để cho một vật được sử dụng làm tiền tệ thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy, tiền tệ thế giới là chúng phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và sự tín nhiệm của dân chúng.
    Phần III: Các chức năng của tiền tệ trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam.
    1. phải dựa trên các chức năng đã trình bày,
    2. nêu thực trạng của Vn hiện nay
    3. qua đó nêu giải pháp hiệu quả
    Trước dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng không mấy khả quan, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi kinh tế thế giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải như lạm phát, nhập siêu ở mức cao, tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế, một số bộ phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khoán, ngoại hối .) diễn biến còn phức tạp . ,
    NHNN xác định mục tiêu định hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT và các biện pháp điều hành được thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của Chính phủ và điều kiện thực tế của thị trường tài chính - tiền tệ. NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ và linh hoạt để ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp; thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô.

    NHNN thay đổi chính sách điều hành, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, công cụ lãi suất. Đồng thời cũng rất chủ động, linh hoạt trong công tác quản lý, nhằm đảm bảo tính kịp thời, thích ứng của các chính sách ban hành phù hợp với thực tế và chỉ đạo của Chính phủ trong từng giai đoạn.
    Nâng cao tính hiệu quả của công cụ lãi suất (đặc biệt là lãi suất huy động vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở - OMO), kết hợp hài hòa với các công cụ gián tiếp nhằm đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống, kiểm soát được sức ép gia tăng lãi suất.
    Nếu như trong năm 2008, để kiểm soát lạm phát, hạ nhiệt thị trường tín dụng, lãi suất cơ bản được sử dụng như là công cụ chính yếu với tần suất và mức độ điều chỉnh lớn, thì trong những tháng đầu năm 2012, để phù hợp với tinh thần của Luật NHNN ban hành năm 2010 chủ yếu sử dụng lãi suất cơ bản làm công cụ chống cho vay nặng lãi nên NHNN đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Cho đến thời điểm này, NHNN điều chỉnh đối với lãi suất tái cấp vốn, đối với lãi suất tái chiết khấu kể từ đầu năm 2012. Hiện tại, lãi suất tái cấp vốn là 13% và lãi suất tái chiết khấu lên mức 11%.
    Xu hướng điều hành này là một bước tiến tích cực của NHNN trong công tác điều hành lãi suất, từng bước cơ cấu lại các mức lãi suất cho phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp cho NHNN thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng của mình, cũng như ngăn chặn được sự ỷ lại và lạm dụng nguồn vốn giá rẻ của một số NHTM từ NHNN. Đồng thời, các mức lãi suất này cũng đã phát được tín hiệu điều hành CSTT của NHNN, thực hiện tương đối tốt vai trò là lãi suất định hướng trên thị trường). Nhờ đó mà hoạt động điều tiết thị trường của NHNN qua thị trường mở vận hành trôi chảy, giữ vững được thanh khoản cả hệ thống, kết hợp hài hòa giữa thị trường và quản lý.
    NHNN cũng chủ động trong việc điều hành lãi suất ngoại tệ theo nguyên tắc góp phần đảm bảo mức ngang giá của đồng nội tệ và ngoại tệ trong nền kinh tế, góp phần đảm bảo sự ổn định của tỷ giá, tạo niềm tin vào giá trị đồng nội tệ.
    Các biện pháp điều hành công cụ lãi suất NHNN kiên quyết bảo vệ quan điểm sử dụng các biện pháp quyết liệt để giảm tổng cầu, kiểm soát lạm phát. Trong đó, NHNN điều hành tăng các lãi suất chủ đạo nhằm tác động vào thị trường theo hướng thu hút được tiền vào hệ thống, và chọn lọc các dự án cho vay có hiệu quả.
    Tuy nhiên, việc điều chỉnh tăng các lãi suất điều hành này đã tác động nhất định ( không lớn) đến việc tăng của lãi suất huy động và cho vay trong nền kinh tế. Xác định được tác động bất lợi này, cùng với những hành vi cạnh tranh tăng lãi suất để chiếm giữ thị phần của các NHTM (các hành vi này có thể gây mất an toàn hệ thống), NHNN đã chủ động đưa ra các biện pháp quản lý chặt chẽ, cụ thể là quy định lãi suất huy động bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng (TCTD) không vượt quá 12%/năm;
    Nhìn chung, mặt bằng lãi suất trên vẫn được đánh giá là còn cao, tuy nhiên trong bối cảnh hiện này, khi lạm phát ở mức cao thì thực tế này là một điều không thể tránh khỏi. Để giảm tổng cầu thì lãi suất phải cao, phải giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng. Và NHNN chỉ có thể sử dụng các công cụ điều hành để tác động giảm dần lãi suất theo hướng đạt được sự ổn định tương đối vững chắc khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm dần.
    Điều hành tỷ giá ổn định, linh hoạt phù hợp với diễn biến của thị trường, tăng cường quản lý ngoại hối tập trung, đảm bảo tính thanh khoản ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối; Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, thị trường vàng trong nước theo sát thị trường vàng thế giới.
    Công tác quản lý ngoại hối trong thời gian qua được đánh giá là có những bước chuyển biến lớn, đã thể hiện sự chủ động của NHNN trong công tác đón đầu những rủi ro tiềm ẩn của thị trường ngoại hối. Và nhằm tăng tính thanh khoản của thị trường ngoại hối được nhìn nhận là văn bản pháp lý ngoại hối quan trọng đầu tiên, tạo bước ngoặt cho xu hướng tỷ giá USD/VNĐ.
    Không chỉ điều hành để ổn định tỷ giá, các giải pháp chính sách quản lý ngoại hối còn tập trung giảm thiểu dần hiện tượng đô-la hóa trong nền kinh tế. NHNN và các cơ quan chức năng có liên quan thực hiện các biện pháp tăng cường giám sát, kiểm tra và xử lý các điểm kinh doanh ngoại tệ trái phép, làm hoạt động mua - bán ngoại tệ trên thị trường tự do giảm mạnh và nhiều điểm mua - bán USD đã phải ngưng giao dịch. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của người dân, các TCTD được phép hoạt động ngoại hối chỉ đạo toàn hệ thống tăng cường hoạt động mở thẻ thanh toán quốc tế và chủ động bán ngoại tệ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu hợp pháp như đi công tác, học tập, chữa bệnh của cá nhân theo các quy định của pháp luật.
    Mặc dù diễn biến thị trường ngoại hối là ổn định nhưng để tăng cường tính chủ động trong công tác điều hành chính sách tỷ giá trong điều kiện nhập siêu còn lớn, lạm phát gia tăng, vốn FDI có xu hướng giảm, NHNN phải ban hành những chính sách mới với kỳ vọng là sẽ hỗ trợ tốt cho công tác điều hành CSTT để kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô theo chủ trương của Chính phủ, tiếp tục duy trì được sự ổn định cho tỷ giá, tăng cường dự trữ ngoại hối, giảm mức độ đô-la hóa.
    Ba là, Quyết tâm thực hiện hiệu quả công cụ hạn mức tín dụng, hạn chế cung tiền thông qua kênh tín dụng, kết hợp hài hòa với công cụ lãi suất nhằm thực hiện giảm tổng cầu
    - Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng
    - Điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa;
    Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ mục tiêu tập trung vốn vay cho phát triển sản xuất kinh doanh và nông nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Đồng thời để hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ quá nóng.
    Những mối lo về việc tạo lập được một mặt bằng lãi suất phù hợp (không quá cao, đảm bảo cho các doanh nghiệp tiếp cận được vốn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh), đảm bảo tính thanh khoản hệ thống, duy trì sự ổn định bền vững của thị trường ngoại hối vẫn còn là những thách thức của NHNN.
    Các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần nhận thức rõ trách nhiệm và chia sẻ khó khăn cùng doanh nghiệp, đất nước và tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
    - Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của từng ngân hàng dưới 20% ở mọi thời điểm; giảm dần tốc độ và tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, đánh giá lại các khoản cấp tín dụng đối với khách hàng;
    - Chấp hành nghiêm quy định về lãi suất huy động tối đa bằng đồng Việt Nam;
    - Xem xét, đánh giá lại rủi ro, giảm dần quy mô hoạt động trên thị trường 2 ở mức hợp lý nhằm đảm bảo phù hợp với quy mô của TCTD trên thị trường 1 và khả năng quản trị rủi ro của đơn vị;
    - Thực hiện các giải pháp tiết kiệm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất, tránh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh.
    Các đơn vị chức năng thuộc NHNN tập trung thực hiện các giải pháp sau:
    - Tiếp tục điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng; sử dụng linh hoạt các loại lãi suất thuộc công cụ điều hành của NHNN để điều tiết và tác động ổn định thị trường tiền tệ;
    - Tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường ngoại tệ, vàng, đặc biệt là những tháng cuối năm để có giải pháp điều hành thích hợp; thực hiện các biện pháp để tăng dự trữ ngoại tệ;
    - Tăng cường thanh tra, kiểm tra tính tuân thủ, chấp hành kỷ cương, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động của các TCTD; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn, quy định về trần lãi suất huy động và các quy định khác; phối hợp với các cơ quan truyền thông để thông tin hành vi vi phạm và kết quả xử lý đối với TCTD; đảm bảo an toàn hệ thống tránh rủi ro và giảm nợ xấu, ổn định và lành mạnh hóa thị trường tiền tệ, trước hết là thị trường liên ngân hàng, kể cả nội ngoại tệ, thị trường vàng
    - Xây dựng đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để nâng cao chất lượng, hiệu quả và an toàn hệ thống; Triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng theo Đề án được Chính phủ phê duyệt với nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát, từng bước nâng cao tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Kiên quyết xử lý dứt điểm những ngân hàng yếu kém, tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả phát triển. Nghiên cứu, sớm ban hành một số văn bản hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng như: vay vốn giữa các TCTD, đầu tư tài chính, trong đó có hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác, nhận ủy thác đầu tư.
    Bên cạnh đó, Ngoài ra sẽ không ngừng nâng cao chất lượng thống kê, dự báo phục vụ cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, làm tốt công tác thông tin truyền thông, đưa thông tin đầy đủ, kịp thời về các giải pháp điều hành và hoạt động ngân hàng
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...