Thạc Sĩ Tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học vi sinh vật học (sinh học 10)

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 17/3/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC
    MỤC LỤCTrang
    MỞ ĐẦU . .2
    Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
    1.1. Một số khái niệm cơ bản 6
    1.2. Tổng quan về giáo dục hướng nghiệp . 9
    1.3. Tình hình giáo dục hướng nghiệp qua dạy học Vi sinh vật học (SH 10) ở trường
    phổ thông 16

    Chương 2. TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG DẠY HỌC
    VI SINH VẬT HỌC (SH 10) Ở TRƯỜNG THPT
    2.1. Những quan điểm chỉ đạo việc xác định phương pháp giáo dục hướng nghiệp
    qua dạy học Vi sinh vật học (Sinh học 10) . 22
    2.2. Các hình thức hướng nghiệp ở trường phổ thông . 30
    2.3. Tích hợp giáo dục hướng nghiệp qua dạy học Vi sinh vật học . 40
    2.4.Các nguyên tắc đưa kiến thức giáo dục hướng nghiệp vào nội dung môn học 47
    2.5. Lôgic tổ chức bài giảng Vi sinh vật học tích hợp giáo dục hướng nghiệp 48
    2.6. Một số ví dụ tích hợp giáo dục hướng nghiệp qua dạy học Vi sinh vật học . 52
    Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
    3.1. Mục đích - nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm . 59
    3.2. Nội dung và phương pháp thực nghiệm . 59
    3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm 62
    KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
    A. Kết luận . 70
    B. Đề nghị 70
    Tài liệu tham khảo 72
    Phụ lục 75
    1
    MỞ ĐẦU
    1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    Xuất phát từ những đòi hỏi của xã hội đối với nghề nghiệp
    Nhu cầu của xã hội đối với nghề đã tạo nên thị trường lao động của xã hội.
    Trước đây - thời kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, nhu cầu của xã hội chỉ được
    biểu hiện thông qua quản lý Nhà nước bằng việc thiết lập kế hoạch đào tạo, phân bổ
    sản phẩm đào tạo theo chỉ tiêu ấn định cho mỗi nghề, mỗi lĩnh vực sản xuất mà
    người ta cho rằng, làm như vậy sẽ tạo ra sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng một
    cách hợp lý, giúp cho mọi người đều có công ăn việc làm. Với cách hiểu và làm như
    vậy, bản chất của nhu cầu xã hội như bị tha hoá, trở thành nhu cầu của một bộ phận
    người nắm quyền quản lý xã hội, tính phổ quát của nhu cầu xã hội được biến đổi trở
    thành tính cục bộ duy ý trí. Với sự vận hành của cơ chế thị trường, khi sức lao động
    được coi là hàng hoá như quan điểm của Đảng ta đã thừa nhận, giá trị của hàng hoá
    “sức lao động” đã được định giá trên thị trường lao động - nó được thị trường chấp
    nhận đến mức nào là do tính hữu dụng của giá trị đó đáp ứng nhiều hay ít nhu cầu
    của thị trường lao động xã hội [15].
    Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mạng lưới ngành nghề cũng được mở
    rộng về quy mô, số lượng và chất lượng. Kinh tế nhiều thành phần được Nhà nước
    khuyến khích và chủ trương phát triển tạo ra những quan niệm mới đối với các nghề
    trong khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế liên doanh với nước ngoài, và
    khu vực kinh tế tư nhân. Nền sản xuất ngày nay được thừa hưởng thành quả của
    cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Công nghệ mới là sự biểu hiện tập
    trung của những tri thức mới trong sản xuất, trong nghề nghiệp. Những tri thức mới
    đó là cơ sở của những phương thức làm giàu kiểu mới cho đất nước. HN trong giai
    đoạn hiện nay phải chỉ ra hướng phát triển cho các nghề theo hướng ứng dụng
    những tri thức mới, những công nghệ mới và từ đó, vẽ nên viễn cảnh phát triển của
    nghề [5]. Bởi vậy, việc tìm hiểu trực tiếp lao động, nhận biết về nhu cầu nghề
    nghiệp của các khu vực kinh tế trong hiện tại cũng như những dự báo về sự phát
    triển và biến động của hệ thống nghề nghiệp là điều cần thiết mang tính chiến lược
    của mỗi học sinh trong quyết định nghề nghiệp tương lai của bản thân mình.
    Xuất phát từ đặc điểm môn học
    Sinh học có liên quan tới hàng loạt nghề trong lĩnh vực nông nghiệp và công
    nghiệp (đặc biệt là nông nghiệp) đó là: trồng trọt cây lương thực (lúa, ngô, khoai,
    sắn), cây công nghiệp (lạc, đậu, chè), chăn nuôi gia súc (trâu, bò, lợn, gà, nuôi ong,
    nuôi cá ), công nghiệp chế biến phân bón, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu, công
    nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm Khi truyền thụ nội dung kiến thức này,
    giáo viên phải có sự liên hệ ứng dụng những kiến thức vào nông nghiệp, cần chỉ rõ
    sinh học đã tạo cơ sở khoa học cho nông nghiệp để nâng cao năng suất cây trồng,
    vật nuôi thông qua việc hợp lý hoá các quy trình và kế hoạch sản xuất, chuyên môn
    hoá phân công lao động Thông qua việc dạy những bài học này, giáo viên có điều
    kiện giúp học sinh làm quen với công việc của những người chọn giống, làm đất,
    phòng dịch đồng thời còn gợi ra cho học sinh thấy rõ khả năng lao động sáng tạo
    của những người làm việc trong các nghề nghiệp này.
    Nội dung các kiến thức sinh học có liên quan nhiều tới môi trường và điều
    kiện tự nhiên: khí tượng, thuỷ văn, chống xói mòn, trồng cây gây rừng và hàng loạt
    những nghề nghiệp khác. Giáo viên cần giáo dục cho học sinh có ý thức bảo vệ môi
    trường sinh thái và hiểu biết sự xuất hiện của nhiều chuyên ngành mới nghiên cứu
    về tự nhiên: vật lý sinh học, sinh hoá học, kể cả những nghề gắn liền với sinh học
    vũ trụ trong tương lai [15], [17].
    Xuất phát từ thực trạng dạy học giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
    Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là một vấn đề rất quan trọng nhưng
    chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó các giáo viên dạy môn “hướng nghiệp
    - dạy nghề” chỉ dạy nghề chứ chưa thật sự hướng nghiệp. Các giáo viên dạy bộ môn
    này chưa được trang bị những kỹ năng để hướng nghiệp mà chủ yếu truyền cho học
    sinh bằng kinh nghiệm của mình. Hiện nay, hầu hết các trường đều phân công giáo
    viên chủ nhiệm, thành viên ban giám hiệu hoặc các giáo viên thiếu tiết làm công
    tác hướng nghiệp cho học sinh. Trong khi đó, công tác hướng nghiệp cho học sinh
    đòi hỏi sự hợp tác của giáo viên nhiều bộ môn bởi chương trình của môn học nào
    cũng có tiềm năng hướng nghiệp. Ngoài thời gian học theo chương trình hướng dẫn,
    học sinh rất cần biết nhu cầu nguồn nhân lực của địa phương và cả nước, ở thời
    điểm hiện tại cũng như trong tương lai. Điều này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức
    rộng, bao quát, nắm bắt nhanh tình hình. Tuy nhiên, thực tế không phải giáo viên
    nào cũng đáp ứng được những yêu cầu đó. Nhà trường phổ thông chưa phát triển
    được các phẩm chất, năng lực, đặc tính, động cơ nghề nghiệp cũng như các năng lực
    cốt yếu như là những tiền đề cơ bản để khi ra trường họ có thể đáp ứng thị trường
    lao động. Nhiều HS đã mắc sai lầm trong việc chọn nghề do những nguyên nhân
    khác nhau như: chọn nghề theo suy nghĩ chủ quan, không căn cứ vào năng lực,
    .không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng khi chọn
    nghề; thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khỏe của bản thân, không có đầy đủ thông
    tin về những chống chỉ định y học trong các nghề [37].
    Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục hướng nghiệp
    trong dạy học Vi sinh vật học (Sinh học 10)”.
    2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
    Nghiên cứu các biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học Vi
    sinh vật học (Sinh học 10) để góp phần nâng cao tính hứng thú lựa chọn nghề
    nghiệp của học sinh, qua đó nâng cao chất lượng dạy học Sinh học ở trường phổ
    thông.
    3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
    * Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy
    học Vi sinh vật học (SH 10) ở trường THPT.
    * Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học sinh học ở trường THPT.
    4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
    Nếu tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học Vi sinh vật học (SH 10)
    sẽ tạo ra hứng thú lựa chọn nghề nghiệp cho học sinh, qua đó góp phần nâng cao
    chất lượng dạy học môn học này ở trường phổ thông.
    5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
    - Khảo sát thực trạng giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT.
    - Nghiên cứu cơ sở lý thuyết của tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học Vi
    sinh vật học (SH 10) ở trường THPT.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...