Tài liệu Thuế xuất nhập khảu

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I-KHÁI NIỆM THUẾ XUẤT KHẨU - THUẾ NHẬP KHẢU
    1. Khái Niệm
    Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các mối quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng tăng. Mỗi một Quốc gia độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới của mình. Thuế này được gọi là thuế quan (Custom Duty).
    Trong điều kiện nền Kinh tế giới phát triển theo xu hướng Quốc Tế hoá thì pháp luật của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
    Thuế quan tại Việt Nam có tên gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
    Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào những mặt hàng được phép xuất khẩu-nhập khẩu qua biên giới Việt Nam. Kể cả thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và ngược lại.
    Thuế xuất khẩu, thuế Nhập khẩu được nhà nước ta ban hàng vào năm 1951, thời điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữ vùng tự do và vùng bị tạm chiếm , bảo vệ và phát triển kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc lao giao lưu các loại hàng hoá là nhu cầu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, Nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30% trở lên.

    Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được quốc tế nước ta ban hành mậu dịch quốc hội nước ta ban hành ngày 29-12-1987. Đạo luật này chỉ điều chỉ quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phận biệt trong áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.

    Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành sửa đổi, bổ sung 1 số điều của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc Hội thông qua 26-12-1991 và luật sửa đổi bổ sung 1 số điều của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc Hội thông qua ngày 05-07-1993. Luật này được Quốc hội Thông qua 20-05-1998 có hiệu lực thi hành 1-1-1999.

    Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hoá mậu dịch ban hành năm 1987. Theo đó nhà nước thu thuế xuất khảu, thuế nhập khẩu không phân biệt tích chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.

    Đối tượng điều chỉnh của luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu nộp thế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức các nhân co hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam. kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.

    Theo quy định của luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuát khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tuỳ theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...