Thạc Sĩ Thực trạng và các giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ hưu trí tại TP.Hồ Chí Minh

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/3/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU

    1. Cơ sở chọn đề tài:
    Trong cuộc sống không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp những thuận
    lợi, có đầy đủ thu nhập và những điều kiện sinh sống bình thường, trái lại có
    nhiều trường hợp khó khăn, bất hạnh rủi ro xảy ra làm cho con người bị giảm,
    mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác như ốm đau, tai nạn, mất người
    nuôi dưỡng, tuổi già v.v
    Khi rơi vào những trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động nói
    trên các nhu cầu cuộc sống không vì thế mà mất đi. Trái lại có cái còn tăng lên
    thậm chí có thể xuất hiện thêm nhu cầu mới như khi ốm đau phải cần được chữa
    trị ăn uống đủ chất; hoặc khi tuổi già phải cần nguồn thu nhập để giải quyết các
    nhu cầu cơ bản cho cuộc sống. Bởi vậy muốn tồn tại con người và xã hội loài
    người luôn luôn tìm ra các biện pháp thích hợp để giải quyết. Một trong các biện
    pháp đó là san sẻ rủi ro của số đông người tham gia cho số ít dưới hình thức bảo
    hiểm, trong đó có BHXH.
    Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên
    trong xã hội điều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần
    thiết phải tiến hành cho người lao động. Vì vậy BHXH đã trở thành nhu cầu và
    quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách
    quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên ngôn Nhân
    quyền của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc họp thông qua ngày 10/12/1948 đã nêu:
    “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được
    hưởng BHXH”.
    Theo công ứơc 102/ILO ngày 28/06/1952 của tổ chức Lao động quốc tế
    BHXH gồm các chế độ sau đây:


    - Chăm sóc y tế.
    - Trợ cấp ốm đau
    - Trợ cấp thai sản
    - Trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp
    - Trợ cấp tàn tật.
    - Trợ cấp gia đình.
    - Trợ cấp thất nghiệp.
    - Trợ cấp tử tuất.
    - Trợ cấp tuổi già (hưu trí).
    Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày
    2/9/1945), Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách BHXH. Qua nhiều lần cải cách
    hệ thống BHXH Việt Nam có các chế độ sau đây:
    - Chăm sóc y tế.
    - Trợ cấp ốm đau
    - Trợ cấp thai sản
    - Trợ cấp tai nại lao động- bệnh nghề nghiệp
    - Nghỉ dưỡng sức.
    - Trợ cấp tàn tật (trợ cấp mất sức lao động).
    - Trợ cấp tử tuất.
    - Trợ cấp tuổi già(hưu trí).
    Một trong các chế độ BHXH quan trọng với nhiều người tham gia và
    nhiều người được hưởng là chế độ hưu trí. Tuy nhiên do chính sách BHXH nói
    chung và chế độ hưu trí nói riêng chưa hoàn thiện vì vậy theo các chuyên gia thì
    nguy cơ mất cân đối giữa thu và chi đối với chế độ hưu trí là điều không thể
    tránh khỏi nếu ngay từ bây giờ không có những cải cách thích hợp.

    Theo tài liệu công bố của Uûy ban các vấn đề xã hội thuộc Quốc Hội nước
    Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với tăng đối tượng tham gia BHXH
    và điều chỉnh tăng tiền lương, số thu quỹ BHXH hàng năm cũng tăng khá nhanh.
    Theo qui định về BHXH, kinh phí chi trả cho người nghỉ hưu, nghỉ mất sức và
    tiền tuất từ trước tháng 10/1995 do ngân sách Nhà nước bảo đảm, còn quỹ
    BHXH chỉ phải chi trả lương hưu và các loại trợ cấp BHXH cho các đối tượng
    nghỉ hưởng chế độ hưu, mất sức và tử tuất từ 01/10/1995 về sau. Về nguyên tắc,
    thì sau 15 năm kể từ năm 1995 mới có đối tượng hưởng chế độ hưu và tử tuất
    đầu tiên, tuy nhiên thực tế ngay sau khi tách ra khỏi ngân sách, quỹ BHXH đã
    phải chi trả chế độ hưu và tiền tuất và số chi này ngày càng tăng cao. Năm 2002,
    quỹ BHXH đã phải chi trả lương hưu và trợ cấp cho 244.467 đối tượng, đến năm
    2003 đối tượng hưởng trợ cấp do quỹ BHXH chi trả đã là 304.757 người, tăng
    24,7% so với năm 2002. Mức hưởng BHXH bình quân hàng năm cũng tăng khá
    nhanh, năm 2003 so với năm 2002 tăng 23,3%. Tỷ trọng kinh phí do quỹ BHXH
    chi trả so với tổng số quỹ thu được hàng năm ngày càng tăng, năm 2002 chiếm
    37,1% và đến năm 2003 đã chiếm tới 39,4%. Mặc dù đang có số tồn quỹ BHXH
    khoảng gần 35.000 tỷ đồng nhưng với tỷ trọng thu-chi vào các năm sau. theo tính
    toán của các chuyên gia, với tốc độ điều chỉnh tăng chi BHXH gắn với tiền
    lương như hiện nay, nếu không có những thay đổi về chế độ thu, chi BHXH hợp
    lý và đầu tư bảo toàn, tăng trưởng quỹ có hiệu quả cao thì đến khoảng năm 2030
    quỹ BHXH sẽ có nguy cơ vỡ.
    Theo chúng tôi có các nguyên nhân gây mất cân đối quỹ BHXH trong
    tương lai gồm:
    - Đóng ngắn, hưởng dài, tuổi nghỉ hưu thấp
    Chính sách BHXH ở nước ta đã thực hiện theo nguyên tắc đóng-hưởng,
    nhưng trên thực tế vẫn tiếp tục thực hiện một số chính sách xã hội trong giai
    đoạn chuyển đổi. Việc quy định mức đóng bằng 15% quỹ lương và sau 30 năm
    làm việc đối với nam, 25 năm đối với nữ sẽ được hưởng 75% mức lương bình
    quân của 5 năm đóng BHXH trước khi nghỉ hưu, xét về khía cạnh kinh tế là chưa
    phù hợp. Bởi nếu một người lao động đóng BHXH trong suốt 30 năm thì số tiền
    đóng góp của người đó, kể cả ước tính tăng trưởng là 6%/ năm thì cũng chỉ đủ
    chi lương hưu cho bản thân người đó được khoảng 6-8 năm, trong khi đó bình
    quân số năm hưởng lương hưu hiện nay khoảng 15 năm. Quy định này đáp ứng
    được yêu cầu thực tế trong giai đoạn chuyển đổi nhưng đã ảnh hưởng đến khả
    năng cân đối lâu dài của quỹ BHXH. Hiện nay việc mở rộng và tăng đối tượng
    tham gia BHXH sẽ tăng nguồn thu song cũng sẽ đồng nghĩa với tình trạng 15
    năm tới số lượng đối tượng được hưởng và số tiền chi trả BHXH tăng lên, như
    vậy có thể kéo dài thời gian mất cân đối quỹ, nhưng khi đã mất cân đối thì tình
    hình sẽ rất nghiêm trọng.
    - Còn đan xen giữa chính sách hưu trí với chính sách xã hội khác
    Bên cạnh đó những năm qua do việc thực hiện một số chính sách xã hội
    như: giảm tuổi nghỉ hưu cho một số đối tượng lao động nặng nhọc, độc hại, nguy
    hiểm, nơi có nhiều khó khăn; tinh giản biên chế khu vực hành chính sự nghiệp,
    sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, cho về hưu trước tuổi một số đối tượng, bình
    quân tuổi nghỉ hưu từ năm 1995 đến nay là 51,5 tuổi và một số chính sách xã hội
    khác đã làm giảm nguồn thu và tăng chi trả từ quỹ BHXH.
    - Chưa có nguồn bổ sung cho số công nhân viên chức nhà nước tham gia
    BHXH trước tháng 1 năm 1995 và về hưu sau năm 1995.
    Năm 1995, quỹ BHXH tách ra khỏi ngân sách, tự hạch toán cân đối thu-
    chi, tuy nhiên vẫn còn khoảng 2,9 triệu cán bộ, công nhân, công chức trong khu
    vực Nhà nước đã tham gia BHXH theo cơ chế cũ được bình quân chưa có nguồn
    bổ sung, vì vậy hiện tại vẫn phải dùng quỹ BHXH để chi trả mà lẽ ra trách
    nhiệm đó thuộc về Nhà nước, ước tính số tiền này vài chục ngàn tỷ đồng.
    - Hoạt động đầu tư sinh lời quỹ nhàn rỗi chưa hiệu quả.
    Việc bảo đảm cân đối thu-chi của quỹ BHXH là bảo tồn và tăng trưởng
    quỹ, song hiện tại quỹ BHXH Nhàn rỗi năm 2002 là 25.507 tỷ đồng, năm 2003
    là gần 35.000 tỷ đồng, lại chưa được đầu tư vào những dự án mang lại hiệu quả
    cao, ít rủi ro, mà chủ yếu cho ngân sách Nhà nước vay hoặc mua công trái, trái
    phiếu nên lãi thu được không nhiều. Năm 2002 thu lại 1.606 tỷ đồng (tỷ lệ lãi
    suất 7,3%/năm), năm 2003 thu lại 1.911 tỷ đồng (tỷ lệ lãi suất là 6,6%/năm).
    Nếu trừ chỉ số giá tiêu dùng tăng hàng năm (năm 2002: 4%; năm 2003:3%) thì
    tốc độ tăng trưởng quỹ chỉ còn 3,3% trong năm 2002 và 3,6% trong năm 2003.
    Mức tăng này là thấp quá so với tính toán, hoạch định chính sách ban đầu (năm
    1991) là 10%-12%/năm. Nếu năm 2004 chỉ số giá tiêu dùng tăng 10% thì quỹ
    BHXH không còn tỷ tăng trưởng.
    Xuất phát từ thực trạng trên Ủy ban các vấn đề xã hội kiến nghị Quốc Hội
    sớm thông qua Luật BHXH và khi thông qua luật, pháp lệnh có ảnh hưởng đến
    cân đối thu-chi quỹ BHXH thì phải tính toán bố trí ngân sách để bảo đảm việc
    thực hiện; bố trí nguồn ngân sách đóng bù 14 năm tiền BHXH của 2,9 triệu cán
    bộ, công nhân viên chức Nhà nứơc và lực lượng vũ trang đã làm việc trước năm
    1995 nay chuyển sang hưởng BHXH theo cơ chế mới.
    Trước thực trạng nêu trên tôi chọn đề tài “Thực trạng và các giải pháp
    nhằm hoàn thiện chế độ hưu trí tại TP.Hồ Chí Minh”. Sở dĩ chọn TP. Hồ Chí
    Minh thực hiện đề tài vì đây là địa phương có số lượng đối tượng tham gia chế
    độ hưu trí đông nhất.
    2. Mục tiêu của đề tài:
    - Phân tích thực trạng thực hiện chế độ hưu trí tại TP. Hồ Chí Minh từ
    1995 đến nay.
    - Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chế độ hưu trí tại
    TP.Hồ Chí Minh.
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
    Đối tượng nghiên cứu là người lao động cán bộ viên chức Nhà nước tham
    gia đóng phí BHXH (phần hưu trí) và những người đang hưởng chế độ hưu trí tại
    TP. Hồ Chí Minh).
    Phạm vi nghiên cứu là số người tham gia, số đơn vị tham gia, số tiền đóng
    vào chế độ hưu trí; số đối tượng hưởng, số tiền chi lương hưu từ 1995 đến nay tại
    TP.HCM.
    4. Phương pháp nghiên cứu:
    Luận văn được thực hiện với các phương pháp cơ bản sau: Phương pháp
    duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp thống kê phân tích so sánh
    tổng hợp, áp dụng thuật toán tài chính để xác định cân đối giữa thu chi chế độ
    hưu trí dựa vào nhóm người tham gia chế độ hưu trí chiếm tỉ lệ đông tại TP. Hồ
    Chí Minh.
    Nguồn tài liệu được sử dụng: sách giáo khoa, các tài liệu, các tạp chí có
    liên quan đến chế độ hưu trí, nguồn tài liệu từ cơ quan BHXH Việt Nam, BHXH
    TP.Hồ Chí Minh, các đề tài nghiên cứu có liên quan đến chế độ hưu trí của sở
    thương binh xã hội TP.HCM và trung tâm khoa học xã hội TP.HCM.

    5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
    Hiện nay trên thế giới nhiều quốc gia đều quan tâm cải cách chế độ hưu
    trí để bảo đảm cân đối tài chính cho chế độ này trong dài hạn. Thậm chí các
    quốc gia đã phát triển có nhiều kinh nghiệm trong thực hiện chế độ hưu trí như
    Pháp, Hoa Kỳ, Thụy Điển cũng thường xuyên đưa ra các giải pháp để hoàn
    thiện chế độ hưu trí của họ. Gần đây các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi
    thuộc Đông Âu cũ cũng đang tích cực thực hiện cải cách chế độ hưu trí. Đặc biệt
    Trung Quốc một quốc gia có thể chế chính trị giống Việt Nam đã tích cực cải
    cách chế độ hưu trí từ 1997 đến nay. Đối với Việt Nam mặc dù chế độ hưu trí đã
    được áp dụng vào những năm sau khi thành lập nứơc Việt Nam Dân chủ Cộng
    hòa nhưng do hoàn cảnh phải trải qua các cuộc chiến tranh và sau đó chính sách
    BHXH nói chung chế độ hưu trí nói riêng bị ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp. Việc
    thực hiện cơ chế muốn hưởng BHXH phải tham gia đóng phí chỉ thật sự bắt đầu
    từ năm 1995 đến nay. Do chưa có kinh nghiệm, do thiếu nguồn nhân lực có
    chuyên môn sâu về lĩnh vực BHXH vì vậy chưa tính toán, dự báo chính xác cân
    đối giữa thu-chi đối với chế độ hưu trí. Vì vậy khi chọn đề tài chúng tôi mong
    muốn đóng góp ý kiến của mình cho việc cải cách chế độ hưu trí ở Tp.Hồ Chí
    Minh nói riêng và BHXH nói chung trong tương lai.
    6. Kết cấu của luận văn:

    Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về chính sách BHXH và chế độ hưu trí.

    Chương 2: Phân tích thực trạng thực hiện chế độ hưu trí tại TP HCM

    Chương3: Các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ hưu trí tại TP.HCM.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...