Thạc Sĩ Thực trạng sốt rét và một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tình hình dịch tễ sốt rét huyện krôngbông

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 8/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    Trang bìa
    Trang phụ bìa
    Lời cam đoan i
    Lời cảm ơn của tác giả ii
    Mục lục iii
    Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
    Danh mục các bảng
    Danh mục các biểu
    Danh mục các hình
    Phần nội dung của luận văn
    ĐẶT VẤN ĐỀ 1
    Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
    1.1. Khái quát lịch sử bệnh sốt rét
    1.2. Tình hình dịch tễ sốt rét
    1.3. Các yếu tố đảm bảo cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét
    1.4. Ảnh hưởng của điều kiện môi trường đến việc lây truyền sốt
    rét
    1.5. Cơ sở thực hiện đề tài tại huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk
    Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
    CỨU
    16
    2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu
    2.2. Phương pháp nghiên cứu
    2.3. Thuật ngữ dùng trong Luận văn 6
    Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28
    3.1. Thực trạng sốt rét huyện Krông Bông
    3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình sốt rét huyện Krông Bông
    Chương 4: BÀN LUẬN 63
    4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ sốt rét ở huyện Krông
    Bông
    4.2. Thực trạng sốt rét huyện Krông Bông
    4.3. Đề xuất các biện pháp khống chế nguy cơ gia tăng sốt rét trên
    cơ sở thực trạng sốt rét tại địa phương
    KẾT LUẬN 74
    1. Tình hình dịch tễ học sốt rét tại huyện Krông Bông
    2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sốt rét và biện pháp phòng chống
    KIẾN NGHỊ 77
    Tài liệu tham khảo: tiếng Việt và tiếng Anh
    Phụ lục7
    DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT & CÁC KÝ HIỆU
    An. minimus: Anopheles minimus
    An. dirus: Anopheles dirus
    BNSR: Bệnh nhân sốt rét
    CSSKBĐ: Chăm sóc sức khỏe ban đầu
    F: P. faciparum
    KAP: Knowledge Attitude Practic
    KHV: kính hiển vi
    KST: Ký sinh trùng
    KSTSR: Ký sinh trùng sốt rét
    MT-TN: miền Trung-Tây Nguyên
    PCSR: Phòng chống sốt rét
    PH: Phối hợp P. faciparum + P. Vivax
    PKĐKKV: Phòng khám đa khoa khu vực
    P. faciparum: Plasmodium faciparum
    P. malariae: Plasmodium malariae
    P. ovale: Plasmodium ovale
    P. vivax: Plasmodium vivax
    SRAT: Sốt rét ác tính
    SRLH: Sốt rét lưu hành
    TDSR: Tiêu diệt sốt rét
    TVSR: Tử vong sốt rét
    WHO (World Health Organization): Tổ chức Y tế thế giới
    V: P. vivax 8
    DANH MỤC CÁC BẢNG
    Trang
    Bảng 2.1 Bảng các biến số và phương pháp thu thập số liệu 25
    Bảng 3.1 Bệnh nhân sốt rét tại 3 xã nghiên cứu qua điều tra cắt ngang 28
    Bảng 3.2 Chỉ số mắc sốt rét theo nhóm tuổi tại 3 xã nghiên cứu 29
    Bảng 3.3 Chỉ số KSTSR/lam tại các xã nghiên cứu qua điều tra cắt
    ngang
    30
    Bảng 3.4 Chỉ số KSTSR/lam theo nhóm tuổi tại 3 xã nghiên cứu 31
    Bảng 3.5 Chủng loại và cơ cấu KSTSR tại 3 xã nghiên cứu 32
    Bảng 3.6 Chỉ số lách sưng do sốt rét tại các xã nghiên cứu qua điều tra
    cắt ngang
    33
    Bảng 3.7 Chỉ số lách sưng do sốt rét theo nhóm tuổi tại các xã nghiên
    cứu
    34
    Bảng 3.8 Mật độ muỗi Anopheles qua các phương pháp điều tra tại xã
    Cư drăm
    36
    Bảng 3.9 Mật độ muỗi Anopheles qua các phương pháp điều tra tại xã
    Hòa Phong
    38
    Bảng 3.10 Mật độ muỗi Anopheles qua các phương pháp điều tra tại xã
    Hòa Lễ
    39
    Bảng 3.11 Tương quan giữa lượng mưa, nhiệt độ, ẩm độ trung
    bình và bệnh nhân sốt rét tại điểm nghiên cứu.
    41
    Bảng 3.12 Đặc điểm về tuổi, giới, dân tộc và trình độ văn hóa 43
    Bảng 3.13 Các loại phương tiện truyền thông người dân tiếp cận được 44
    Bảng 3.14 Kiến thức PCSR của người dân tại 3 xã nghiên cứu 45 9
    Bảng 3.15 Thái độ phòng chống sốt rét của người dân ở 3 xã nghiên cứu 46
    Bảng 3.16 Thực hành phòng chống sốt rét của người dân ở 3 xã nghiên
    cứu
    46
    Bảng 3.17 Yếu tố nghề nghiệp liên quan đến phơi nhiễm bệnh sốt rét 47
    Bảng 3.18 Liên quan giữa yếu tố nguy cơ và không nguy cơ với tỷ lệ
    mắc sốt rét tại điểm nghiên cứu
    48
    Bảng 3.19 Liên quan về tần suất mắc sốt rét giữa nhóm đi rừng, ngủ rẫy
    và nhóm không đi rừng, ngủ rẫy
    48
    Bảng 3.20 Liên quan giữa dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh với tỷ lệ
    nhiễm sốt rét
    49
    Bảng 3.21 Liên quan giữa trình độ văn hóa của cộng đồng với tình trạng
    nhiễm sốt rét
    49
    Bảng 3.22 Cấu trúc nhà ở theo chất liệu 50
    Bảng 3.23 Diện tích nhà ở 50
    Bảng 3.24 Độ bao phủ màn tẩm hóa chất 51
    Bảng 3.25 Sử dụng màn tẩm hóa chất 51
    Bảng 3.26 Kết quả khảo sát nhân lực y tế tại 3 xã nghiên cứu 53
    Bảng 3.27 Năng lực hoạt động PCSR của y tế cơ sở tại 3 xã nghiên cứu 54
    Bảng 3.28 Diễn biến sốt rét tại huyện Krông Bông 2001-2008 55
    Bảng 3.29 Chỉ số KSTSR và cơ cấu KSTSR tại huyện Krông Bông
    2001-2008
    57
    Bảng 3.30 Thành phần loài Anopheles tại xã 3 xã nghiên cứu 60
    Bảng 3.31 So sánh mật độ đốt người của véc tơ truyền bệnh sốt rét ở các
    điểm điều tra
    61 10
    DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
    Trang
    Biểu đồ 3.1 Bệnh nhân sốt rét tại 3 xã nghiên cứu 29
    Biểu đồ 3.2 Chỉ số mắc sốt rét theo nhóm tuổi tại 3 xã nghiên cứu 30
    Biểu đồ 3.3 Chỉ số KSTSR/lam tại các xã nghiên cứu 31
    Biểu đồ 3.4 Chỉ số KSTSR/lam theo nhóm tuổi tại các xã nghiên
    cứu
    32
    Biểu đồ 3.5 Cơ cấu chủng loại KSTSR tại 3 xã nghiên cứu 33
    Biểu đồ 3.6 Chỉ số lách sưng do sốt rét tại các xã nghiên cứu 34
    Biểu đồ 3.7 Chỉ số lách sưng do sốt rét theo nhóm tuổi tại các xã
    nghiên cứu
    35
    Biểu đồ 3.8 Biểu đồ tương quan giữa lượng mưa, nhiệt độ và ẩm
    độ trung bình và bệnh nhân sốt rét tại điểm nghiên cứu
    42
    Biểu đồ 3.9 Diễn biến sốt rét tại huyện Krông Bông 2001-2008 56
    Biểu đồ 3.10 Diễn biến chỉ số KSTSR/lam qua các năm 2001-2008 58
    Biểu đồ 3.11 Cơ cấu chủng loại KSTSR tại huyện Krông Bông 58 11
    DANH MỤC CÁC HÌNH
    Trang
    Hình 1.1. Mối quan hệ của các yếu tố dịch tễ trong bệnh sốt rét. 7
    Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Krông Bông. 18
    Hình 2.2. Bản đồ phân vùng dịch tễ Huyện Krông Bông. 19 12
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Bệnh sốt rét là một bệnh truyền nhiễm mang tính xã hội có khả năng phát
    triển thành dịch, một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu hiện nay
    và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng, vì vậy năm 1955 Tổ chức Y tế thế
    giới (WHO) đã đề ra chương trình tiêu diệt sốt rét trên toàn cầu. Trong 10 năm
    đầu (1956-1965) chương trình này tiến hành thuận lợi, nhờ vậy bệnh sốt rét đã bị
    tiêu diệt ở châu Âu, châu Úc, Bắc Mỹ và một số nước Đông Bắc Á (Nhật Bản,
    Triều Tiên .) [26]. Từ năm 1966 trở đi chương trình tiến triển chậm, có nơi sốt
    rét quay trở lại (Ấn Độ, Srilanca, Nam Mỹ, Đông Nam Á .) do đó Tổ chức Y tế
    thế giới đã soát xét lại tình hình và đưa ra hướng chiến lược mới một chương
    trình phòng chống sốt rét không có hạn định về thời gian mà mục tiêu lâu dài là
    tiến tới tiêu diệt sốt rét trên toàn thế giới. Từ năm 1969-1979 mỗi nước có một
    chiến lược khác nhau, nhưng thực tế đã chứng minh những nước ở vùng nhiệt
    đới (châu Phi, Nam Mỹ, Đông Nam Á) việc tiêu diệt sốt rét trong thời gian có
    hạn định là không thể thực hiện được. Từ năm 1979, Tổ chức Y tế thế giới
    chuyển sang chiến lược phòng chống sốt rét dựa trên nội dung chăm sóc sức
    khỏe ban đầu mà mục tiêu là giảm tỷ lệ chết do sốt rét (mortality) và giảm tỷ lệ
    mắc bệnh (morbidity) 11], [34], [42]
    Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới thuộc Đông Nam châu Á, có điều kiện
    tự nhiên thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển. Trong chiến lược tiêu diệt sốt rét
    toàn cầu, chương trình tiêu diệt sốt rét đã được tiến hành ở miền Bắc và diệt trừ
    sốt rét ở miền Nam từ 1958-1975. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả
    nước thống nhất tiến hành thanh toán sốt rét từ 1976-1990 và chuyển sang chiến
    lược phòng chống sốt rét từ 1991 đến nay [35]. 13
    Miền Trung-Tây Nguyên (gồm 11 tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng
    Bình đến Bình Thuận và 4 tỉnh Tây Nguyên: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk
    Nông) là khu vực trọng điểm sốt rét của cả nước. Từ năm 2000 đến nay mặc dù
    đã đạt nhiều kết quả thực hiện các mục tiêu giảm mắc, giảm chết và không để
    dịch sốt rét xảy ra; nhưng công tác phòng chống sốt rét chưa có tính bền vững,
    đặc biệt là ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên nguy cơ sốt rét còn cao với số
    mắc sốt rét hàng năm chiếm gần 50% và số chết sốt rét chiếm trên 80% so với cả
    nước do phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn cho các nhóm dân di
    biến động (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới), hiệu quả các
    biện pháp tác động chưa cao, ý thức tự bảo vệ của người dân trong các vùng sốt
    rét lưu hành còn thấp, nguồn lực không ổn định, hoạt động của màng lưới y tế cơ
    sở (huyện, xã, thôn bản) còn hạn chế, đời sống kinh tế của cộng đồng dân tộc
    thiểu số chưa được cải thiện, hàng năm thời tiết luôn biến động bất thường dẫn
    đến nguy cơ dịch sốt rét có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào [32], [35].
    Đăk Lăk là một tỉnh thuộc địa bàn Tây Nguyên là điểm nóng sốt rét do đặc
    điểm tự nhiên và xã hội thuận lợi cho bệnh sốt rét lan truyền và phát triển, cùng
    với biến động dân số quá lớn ngoài sự kiểm soát của y tế, đặc biệt là làn sóng
    dân di cư tự do ồ ạt từ một số tỉnh phía Bắc vào; trong đó huyện Krông Bông hội
    đủ những yếu tố ảnh hưởng đến sốt rét [31].
    Xuất phát từ thực trạng tình hình sốt rét và yêu cầu nghiên cứu, đề tài
    “Thực trạng sốt rét và các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tình hình dịch tễ
    sốt rét tại huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk năm 2008-2009” được tiến hành
    nhằm đạt được các mục tiêu sau:
    1. Đánh giá thực trạng sốt rét tại huyện Krông Bông.
    2. Mô tả một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến dịch tễ sốt rét. 14
    Chương 1
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Khái quát lịch sử bệnh sốt rét:
    Bệnh sốt rét được biết đến cách đây hơn 2000 năm và đã được Hipocrates
    (Hy Lạp) mô tả chi tiết từ thế kỷ V trước Công nguyên, nhiều tác giả trên thế
    giới nghiên cứu về bệnh này và đặt ra những tên gọi khác nhau như ở Trung
    Quốc gọi là nghịch tật, Việt Nam gọi là sốt rét rừng hay sốt ngã nước; tuy nhiên
    mới chỉ nêu lên một số đặc điểm lâm sàng và vài yếu tố liên quan. Đến thế kỷ
    XIX từ những hiểu biết khá đầy đủ về nguyên nhân gây bệnh sốt rét, tác nhân
    gây bệnh sốt rét, véc tơ truyền bệnh sốt rét, cơ chế lan truyền và chu kỳ phát
    triển của KSTSR khi năm 1880 Laveran (Pháp) lần đầu tiên phát hiện và mô tả
    KSTSR trong máu người đã mở ra một kỷ nguyên mới về quá trình nghiên cứu
    sinh bệnh học và các yếu tố liên quan về bệnh sốt rét làm cơ sở cho việc tìm
    kiếm những chiến lược phòng chống quy mô góp phần giảm thiểu tối đa những
    thiệt hại do bệnh sốt rét gây nên [14], [42].
    Từ những năm 1600, ở Pêru người da đỏ đã dùng vỏ cây Cinchona để chữa
    sốt rét đến năm 1820 Pelletier và Caventou đã chiết xuất ra hoạt chất alkaloide
    quinine và cinchonin từ vỏ cây Cinchona. Năm 1924 Schuleman (Đức) đã phát
    hiện ra thuốc Pamaquine (Plasmoquine) đến năm 1930-1952 hàng loạt thuốc
    chống sốt rét tổng hợp lần lượt ra đời như Chloroquine, Proguanil, Primaquine.
    Năm 1974-1982 Trung Quốc phát triển thuốc Quing Hao Su từ cây Artemisia
    annua, năm 1985-1990 Việt Nam đã chiết xuất thành công Artemisinine từ hoạt
    chất của cây Thanh Hao hoa vàng mọc hoang ở vùng núi phí Bắc làm rõ rệt tử
    vong sốt rét và sốt rét ác tính [42]. 15
    1.2. Tình hình dịch tễ sốt rét:
    1.2.1. Tình hình dịch tễ sốt rét trên thế giới
    Do mang tính chất phổ biến xã hội nên bệnh sốt rét là mối hiểm họa lớn
    với sự phát triển của loài người; cho đến nay bệnh sốt rét vẫn lưu hành ở mức độ
    khác nhau trên 100 nước và vùng lãnh thổ chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt
    đới, vùng cận sa mạc Sahara, Trung và Nam Mỹ, quần đảo Caribe, Trung Đông,
    bán đảo Trung-Ấn, Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương với khoảng 36%
    dân số toàn cầu sống trong vùng sốt rét lưu hành, 7% cư trú tại những vùng
    phòng chống sốt rét không hiệu quả và 29% sống ở những nơi bệnh sốt rét lan
    truyền ở mức độ thấp nhưng nguy cơ bùng phát dịch sốt rét vẫn còn cao. Ước
    tính hàng năm có khoảng 300-500 triệu người mắc và khoảng 1,5 triệu người
    chết do sốt rét, trong đó 80% thuộc về trẻ em châu Phi. Tổ chức y tế thế giới kêu
    gọi tiếp tục áp dụng chiến lược PCSR (malaria control) hoặc đẩy lùi sốt rét (roll
    back malaria) nhằm vào các mục tiêu làm giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét, giảm tỷ
    lệ mắc sốt rét nhằm giảm thiệt hại về kinh tế-xã hội do sốt rét gây ra tùy theo
    thực trạng tình hình sốt rét và khả năng đầu tư của mỗi nước. Những vùng cao
    nguyên (>1500 m) và nơi khô cằn (lượng mưa <1000 mm/năm) có mức độ lan
    truyền SR thấp, dù vậy, dịch sốt rét vẫn có khuynh hướng xảy ra tại các khu vực
    này một khi có những người mang KSTSR và điều kiện khí hậu thuận lợi cho
    muỗi truyền bệnh sốt rét phát triển [2], [5], [14]. Những vụ dịch sốt rét lớn nhất
    gây thiệt hại đáng kể là vụ dịch xảy ra với quân đội Liên Xô cũ sau chiến tranh
    Thế giới lần thứ nhất với hơn 10 triệu người mắc và ít nhất 60.000 người tử vong
    đã được báo cáo trong các năm 1923-1926, vụ dịch ở Sri Lankan với gần 3 triệu
    người mắc và 82.000 người tử vong . [42]. 16
    1.2.2. Tình hình dịch tễ sốt rét ở Việt Nam và khu vực miền Trung-Tây Nguyên
    Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới Đông Nam Á, có điều kiện tự nhiên
    thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển, từ 1958-1975 chương trình TDSR đã được
    tiến hành ở miền Bắc và diệt trừ sốt rét ở miền Nam, sau ngày miền Nam giải
    phóng chiến lược PCSR quốc gia xác định khu vực miền Trung-Tây Nguyên là
    trọng điểm sốt rét của cả nước. Chỉ trong 2 năm (1976-1977) tình hình sốt rét
    tăng vọt: số mắc sốt rét 699.000 người, số chết sốt rét 3.976 người và 58 vụ dịch
    sốt rét đã xảy ra do dân từ thành thị và các khu tập trung trở về làng cũ ở vùng
    sốt rét chưa có biện pháp phòng chống. Từ 1978-1986 nhờ tiến hành các biện
    pháp thanh toán sốt rét tích cực đã làm số mắc sốt rét, chết sốt rét mỗi năm giảm
    xuống 4 lần so với năm 1977. Từ 1978-1990, nguồn lực bị cắt giảm do không
    còn viện trợ từ Liên Xô cũ, di biến động dân lớn từ đồng bằng lên miền núi và
    các tỉnh Tây Nguyên cùng nhiều nguyên nhân khác làm cho bệnh sốt rét quay trở
    lại ngày càng nghiêm trọng mà đỉnh cao vào năm 1991 với số người mắc lên tới
    205.222 người và 9 vụ dịch lớn xảy ra làm chết 1.777 người. Trước tình hình SR
    quay trở lại, năm 1991 Chương trình quốc gia PCSR bắt đầu được thực hiện với
    mục tiêu giảm mắc, giảm chết và giảm dịch sốt rét. Với sự đầu tư đúng mức của
    Chính phủ (70-100 tỷ đồng/năm) và sự hỗ trợ tích cực từ các tổ chức quốc tế,
    trong 15 năm qua (1991-2005) các mục tiêu PCSR ở Việt Nam đã đạt được
    những kết quả đáng kể; so sánh năm 2005 với 1991 số BNSR giảm 73,15%,
    KSTSR giảm 60,46%, TVSR giảm 96,8% và chỉ có 5 vụ dịch xảy ra trên diện
    hẹp ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc[3], [10], [14], [33].
    Khu vực miền Trung-Tây Nguyên luôn được xác định là trọng điểm sốt
    rét, qua phân tích diễn biến sốt rét trong 5 năm gần đây (2001-2005) thì ghánh
    nặng sốt rét hầu như tập trung ở đây (số BNSR chiếm 42%, số SRAT chiếm 17
    80%, số TVSR chiếm 82% và số KSTSR chiếm 77% cả nước hàng năm), do đó
    phòng chống sốt rét có hiệu quả ở khu vực này cũng có nghĩa là giải quyết được
    tình hình sốt rét trên cả nước [26], [32].
    Đăk Lăk là một tỉnh thuộc Tây Nguyên có diện tích 13.080 km 2 gồm 13
    huyện/thành phố, 170 xã/phường, 2.207 thôn buôn với số dân 1.778.883 người,
    trong đó có 1.464.774 dân sống trong vùng sốt rét lưu hành. Với sự đầu tư của
    Chương trình PCSR, 5 năm gần đây Đăk Lăk không có dịch sốt rét xảy ra và tình
    hình sốt rét ổn định: tỷ lệ TVSR/100.000 dân từ 1,32 (năm 2000) giảm xuống
    còn 0,11 (năm 2005); số mắc sốt rét/1.000 dân từ 13,57 (năm 2000) giảm xuống
    còn 2,41 (năm 2005); số ca SRAT và tỷ lệ KSTSR cũng giảm xuống nhiều lần.
    Tuy nhiên, công tác PCSR ở Đăk Lăk còn nhiều khó khăn do hầu hết địa bàn
    tỉnh nằm trong vùng SRLH còn tồn tại muỗi truyền bệnh sốt rét chính (An.
    minimus, An. dirus) và KSTSR (P. faciparum, P. vivax) nên khả năng lan trruyền
    và nguy cơ sốt rét quay trở lại cao [25], [27].
    1.3. Các yếu tố đảm bảo cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét
    Sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét phải đảm bảo 3 yếu tố: Mầm bệnh
    (KSTSR); Trung gian truyền bệnh (Muỗi truyền bệnh sốt rét); Khối cảm thụ
    (người lành) được đặt trong mối quan hệ hỗ tương với các môi trường (vật lý,
    sinh học, kinh tế-xã hội) theo sơ đồ dưới đây [42].
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...