Luận Văn Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam

    LỜI NÓI ĐẦUTrong thời gian này đă có rất nhiều bước phát triển trong lĩnh vực du lịch, du lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái không c̣n chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó đă trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một vài nơi nó xuất hiện không thường xuyên và khá yếu ớt, ít được báo chí chú ư tới. Song ở nhiều nơi khác th́ vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trờn cỏc bản tin chính hay các quảng cáo thương mại công cộng.
    Du lịch sinh thái đă mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Cốsta Rica và Vờnờxuờla, một số chủ trang trại chăn nuôi đă bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đă biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Ecuađo sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galỏpagú để giúp duy tŕ toàn bộ mạng lưới vườn quốc gia. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba lan cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đă thiết lập một số vựng Thiờn nhiờn-và-Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Tại Úc và Niuzeland, phần lớn các hoạt động du lịch đều có thể xếp vào hạng du lịch sinh thái. éơy là ngành công nghiệp được xếp hạng cao trong nền kinh tế của cả hai nước.
    Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt Nam có những lợi thế về vị trí địa lư, kinh tế và giao l­­ưu quốc tế cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực.
    Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và trong t­ương lai gần hoạt động du lịch đ­­ược coi như­­ là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất n­ước.
    Việt Nam là đất nước có nhiều tiềm năng về nguồn lực du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn. Khách nước ngoài đến Việt Nam đều đánh giá cao vẻ đẹp đất n­­ước ta. Hàng loạt các địa danh có thể sử dụng phục vụ khách du lịch, bên cạnh đó nhiều điểm vẫn c̣n ch­ưa được khai thác. Thật khó mà liệt kê hết tất cả những điểm có sức thu hót khách.
    Cùng với sự phát triển của du lịch nói chung, trong những năm gần đây du lịch sinh thái Việt Nam cũng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh những tiềm năng và triển vọng, sự phát triển của du lịch sinh thái ở Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức to lớn.
    Chính v́ vậy em đă chọn đề tài “Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam”, với mong muốn đ­­ược t́m hiểu thêm nhiều kiến thức cả về kinh tế, chính trị, xă hội và môi tr­ường sinh thái. Do điều kiện có hạn, em xin đ­ược giới hạn nội dung đề tài của ḿnh trong hai lĩnh vực:
    1. Tiềm năng, thực trạng về du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn quốc gia.
    2. Tiềm năng, thực trạng của du lịch biển.
    Đồng thời c̣ng nêu ra những giải pháp và chiến l­ược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam.
    Em xin cảm ơn TS. Phạm thị Nhuận, cùng các thầy, cô trong khoa QTKD Du lịch và Khách sạn Tr­ường đại học KTQD Hà nội đă giúp em hoàn thành bài viết này. Em c̣ng xin chân thành cảm ơn th­­ư viện tr­­ường Đại học KTQD - nơi đă cung cấp những tài liệu để em hoàn thành đề án này.

    CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LƯ LUẬN

    1.1. Khái quát du lịch sinh thái.
    Vấn đề vẫn c̣n tồn tại mỗi khi thảo luận về du lịch sinh thái là việc khái niệm về du lịch sinh thái vẫn chưa được t́m hiểu kỹ, do đó thường bị nhầm lẫn với các loại h́nh phát triển du lịch khác. Một số tổ chức đă rất cố gắng làm rơ sự nhầm lẫn này bằng cách sử dụng khái niệm du lịch sinh thái như một công cụ thực hiện bảo tồn và phát triển bền vững. Định nghĩa của Hiệp hội Du lịch Sinh thái đă được phổ biến rộng răi: "Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm tại các điểm tự nhiên, kết hợp với bảo vệ môi trường và cải thiện phúc lợi của người dân địa phương" (Lindberg và Hawkins, 1993). Một định nghĩa đang thịnh hành khỏc đó liên kết các yếu tố văn hoá và môi trường một cách cụ thể hơn là định nghĩa do Tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra. Định nghĩa này cho rằng "du lịch sinh thái là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hoỏ đó tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra, và tạo ra ích lợi cho những người dân địa phương tham gia tích cực" (Ceballos-Lascurỏin, 1996).
    Mặc dù khái niệm du lịch sinh thái vẫn thường được sử dụng tương tự như khái niệm du lịch bền vững, song trên thực tế, du lịch sinh thái nằm trong lĩnh vực lớn hơn cả du lịch bền vững. V́ thế kỷ mới đang tới gần nên tất cả các hoạt động của con người cần phải trở nên bền vững - và du lịch không phải là một ngoại lệ. Du lịch bền vững bao gồm tất cả các loại h́nh của du lịch (dù là loại h́nh dựa trên các nguồn tài nguyên thiờn nhiờn hay tài nguyên do con người tạo ra). Do đó, du lịch sinh thái cần được hiểu là một trong những phạm trù của du lịch bền vững. Một băi biển lớn, một ṣng bạc tiết kiệm năng lượng bằng cách không giặt khăn tắm hàng ngày cho khách hoặc giảm thiểu tác động môi trường bằng cách sử dụng loại xà pḥng gây suy thoái tài nguyên sinh vật th́ không phải là điểm du lịch sinh thái. Qua đây, chúng ta khuyến khích ngành du lịch đại chúng có ứng xử thân thiện với môi trường, hay nói cách khác, chúng ta khuyến khích ngành du lịch phát triển bền vững hơn.
    Không nên coi du lịch sinh thái là ngành du lịch "dựa vào thiên nhiên" vỡ cỏi mỏc này có thể sử dụng trong tất cả các hoạt động du lịch được thực hiện ngoài thiên nhiên (ví dụ trượt tuyết, đi xe đạp leo núi, và bám vách đá leo núi). Những hoạt động du lịch này có thể có mà cũng có thể không thuộc loại hoạt động thân thiện với môi trường. Một cách gọi khác thường bị nhầm với du lịch sinh thái là du lịch thám hiểm. Loại h́nh này thường là các hoạt động thể thao cơ bắp (thường bao gồm sự mạo hiểm cá nhân ở một mức độ nào đó) cũng diễn ra ngoài thiên nhiên (ví dụ leo lên đỉnh hang). Những hoạt động này có thể có hoặc có thể không thuộc loại có trách nhiệm đối với môi trường hay làm lợi cho dân địa phương. Do đó, du lịch sinh thái chỉ nên được sử dụng để mô tả những hoạt động du lịch trong môi trường thiên nhiên với một đặc điểm đi kèm: là loại h́nh du lịch thực sự khuyến khích bảo vệ và giúp xă hội phát triển bền vững.
    Loại h́nh du lịch sinh thái có nhiệm vụ:
    - Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự nhiên.
    - Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng.
    - Thu hót tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phương, người dân bản địa trong việc quản lư và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v .
    Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại h́nh du lịch sinh thái vừa đảm bảo sự hài ḷng đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xă hội hoá thu nhập từ du lịch.
    Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoàn hảo về loại h́nh du lịch sinh thái. Loại h́nh du lịch này quả vẫn c̣n mới mẻ, mặc dù những năm 1997-1998 Tổ chức Du lịch thế giới và Liên Hợp Quốc đă nêu một số quan điểm chuyển mạnh sang loại h́nh du lịch sinh thái phù hợp với điều kiện của sự phát triển du lịch.
    Từ những năm 1985-1990, đặc biệt là sau năm 1990 khoa học sinh thái được chấp nhận khá rộng răi trên thế giới và cũng từ khoa học sinh thái trở thành một lĩnh vực khoa học có giá trị hơn nhiều nên ngành kinh tế-xă hội có ư thức vận dụng những lư thuyết cơ bản của sinh thái học. Ngành du lịch thế giới từ sau cuộc Hội nghị về Trái đất ở Rio đe Janeiro năm 1992 đă thực sự vận dụng sinh thái học dưới nhiều mục tiêu sự phát triển bền vững.
    Việc tổ chức và điều hành loại h́nh du lịch sinh thái như thế nào để có thể:
    - Bảo tồn môi trường tự nhiên mà du lịch đang sử dụng.
    - Nâng cao ư thức của du khách để họ nhận rơ đặc điểm của môi trường tự nhiên trong khi du lịch đang hoà ḿnh vào đó.
    - Động viên trách nhiệm của dân cư địa phương tại khu du lịch, điểm du lịch có trách nhiệm quản lư bảo vệ và phát triển du lịch nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của môi trường du lịch và thiết thực tạo được lợi Ưch lâu dài.
    Nói chung du lịch sinh thái là loại h́nh du lịch dùa vào những h́nh thức truyền thống sẵn có, nhưng có sự hoà nhập vào môi trường tự nhiên với văn hoá bản địa, du khách có thêm những nhận thức về đặc điểm của môi trường tự nhiên, về những nét đặc thù vốn có của văn hoá từng điểm, từng vùng, khu du lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn thất, xâm hại đối với môi trường tự nhiên và nền văn hoá sở tại. C̣n về quy mô của loại h́nh du lịch sinh thái th́ tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện, biện pháp tổ chức của nhà quản lư hoạt động du lịch, có thể dần dần từ quy mô khiêm tốn để phát triển rộng răi.
    Ở nước ta trên phương tiện thông tin đại chúng cũng đă đưa ra nhiều khái niệm và định nghĩa cho loại h́nh du lịch này : “ Du lịch sinh thái là du lịch đến với thiên nhiên hoang sơ, thôn dă ”; “Du lịch sinh thái là du lịch đến vối các khu bảo tồn thiên nhiên” ; “Du lịch sinh thái là du lịch thám hiểm , hoặc mạo hiểm trên các cái mới, cái lạ của thiên nhiên”
    Với Việt nam, một nước mới phát triển về du lịch và loại h́nh du lịch sinh thái hầu như c̣n rất mới, chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm . Vấn đề đạt ra mang tính cấp bách là cần phải quan tâm đến cả hai phương diện:
    Một là: Thống nhất về bản chất và khái niệm của loại h́nh du lịch sinh thái.
    Hai là: Tiếp cận với xu thế và nhu cầu thị trường du lịch sinh thái trong nước và quốc tế, tiến hành xây dựng những định hướng và hoạnh định chiến lược phát triển cho loại h́nh du lịch sinh thái ở Việt nam.
    Với đặc trưng khác biệt về nguồn gốc của sản phẩm du lịch sinh thái và tính chất bền vững của nó, trong những năm qua ở lĩnh vực hoạt động du lịch sinh thái trên phạm vi toàn thế giới, người ta đă rót ra nhiều bài học rất có giá trị đóng góp vào lư luận và hoạt động của loại h́nh du lịch sinh thái.
    Theo đó du lịch sinh thái là loại h́nh du lịch đặc biệt tổng hợp các mối quan tâm cảm giác nhiều đến môi trường thiên nhiên và t́m đến những vùng thiên nhiên nhiều tiềm năng về môi trường sinh thái để cải thiện kinh tế, phóc lợi xă hội, sức khoẻ và hưởng thụ, khám phá những cái mới, cái lạ, cái đẹp và sự trong lành của thế giới tự nhiên, tạo ra mối quan hệ hữu cơ, hoà đồng giữa con người với thiên nhiên, môi trường đồng thời hành động có ư thức trách nhiệm làm cho thiên nhiên môi trường bền vững, phong phú phục vụ trở lại lợi Ưch của con người cả ở hiện tại và tương lai.
    1.2. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
    Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển h́nh với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lư, khí hậu và động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agri-cultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
    Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa h́nh, khí hậu . đó là các hệ sinh thái (eco-systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats) (Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hộ nghị thượng đỉnh Rio de Jannero về môi trường).
    Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại h́nh du lịch dùa vào thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển h́nh với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các vườn quốc gia, nơi c̣n tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dă. tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại h́nh du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các trang trại điển h́nh.
    Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm:
    - Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt c̣n phải là người am hiểu cac đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại h́nh du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự ḿnh t́m hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai tṛ là một người phiên dịch giỏi.
    - Hoạt động du lịch sinh thái đ̣i hái phải có được người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết ǵ đối với việc bảo tồn hoặc quản lư các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lư các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
    Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “ sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lư, sinh học, tâm lư và xă hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm.
    Đứng trên góc độ vật lư, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ.
    Đứng ở góc độ xă hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá-xă hội, kinh tế-xă hội của khu vực. Cuộc sống b́nh thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
    Đứng ở góc độ quản lư, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giói hạn này th́ năng lực quản lư ( lực lượng nhân viên, tŕnh độ và phương tiện quản lư .) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lư và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xă hội.
    Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, v́ vậy khó có thể xác định mét con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm.
    Một điểm cần phải lưu ư trong quá tŕnh xác định sức chứa là “quan ni ệm” về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xă hội khác nhau (ví dụ giữa các nước Châu Á và châu Âu, giữa các nước phát triển và đang phát triển .). Rơ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lư. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng khách/thị trường khác nhau, phù hợp tâm lư và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách.
    Yêu cầu thứ tư là thoả măn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách du lịch. Việc thoả măn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái. V́ vậy, những dịch vụ để làm hài ḷng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những ǵ mà họ quan tâm.
    Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sù tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch .
    Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rót ra những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:- Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên.
    - Không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hót khách mà c̣n bên trong của nó.
    - Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này .
    - Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu do đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biƠn đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.
    - Phải đảm bảo lợi Ưch lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi Ưch về bảo tồn hoặc lợi Ưch về kinh tế, văn hoá, xă hội hay khoa học).
    - Phải đưa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xóc với môi trường tự nhiên, đó là những kinh nghiệm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi t́m cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể.
    - Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đ̣i hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia .
    - Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, hăng lữ hành và các khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi).
    - Thành công đó phải dùa vào sù tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
    - Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan trọng. Nó đ̣i hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
    - Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ quốc tế cho ngành.
    1.3. Tính tất yếu phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam
    Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tương đối muộn. Hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002 lượng khách quốc tế tăng 10,5 lần (từ 250.000 đến 2.620.000) khách nội địa tăng 13 lần (từ 1000.000 tăng lên 13.000.000). Thu nhập xă hội cũng tăng đáng kể, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia và du lịch biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các số liệu thống kê ở một số vườn quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Mă . cỏc khu bảo tồn thiên nhiên như Phong Nha- Kẻ bàng, Hồ kẻ gỗ . b́nh quân mỗi năm tăng 50% khách nội địa và 30 % khách quốc tế. Trong giai đoạn từ 1995 – 1998 du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%.
    V́ vậy hiện nay phát triển du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Du lịch sinh thái phát triển nhằm thoả măn nhu cầu ngày một tăng của khách du lịch, của cộng đồng. Nhu cầu này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển không ngừng của xă hội, đảm bảo về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của hệ sinh thái, với tư cách là một ngành kinh tế. Bên cạnh xu thế phát triển du lịch sinh thái do nhu cầu khách quan, xu thế này c̣n không nằm ngoài xu thế chung về phát triển xă hội của loài người khi các giá trị tài nguyên ngày càng bị suy thoái, khai thác cạn kiệt.
    Việt Nam là một đất nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm hoàn toàn trong ṿng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đă tạo nên một nền nhiệt độ cao, độ Èm không khí cao, mưa nhiều. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3000km, lưng dùa vào dăy Trường Sơn. Chính các điều kiện đó đă mang lại cho Việt Nam một hệ động thực vật vô cùng phong phó, đa dạng và độc đáo. Kết hợp vào đó có rất nhiều nét văn hoá dân téc đặc sắc, đậm đà. Những yếu tố đó đă tạo nên cho Việt Nam một lợi thế to lớn trong việc phát triển loại h́nh du lịch sinh thái. Cùng với việc nỗ lực bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên và văn hoá phục vụ phát triển kinh tế thông qua du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Với tư cách là một ngành kinh tế ṃi nhọn - Du lịch trong đó có du lịnh sinh thái ngày càng khẳng định vị thế của ḿnh đối với sự phát triển kinh tế xă hội của đất nước.
    Du lịch sinh thái ở Việt nam cũng đó cú những đóng góp lớn cho sự phát triển cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nhờ phát triển du lịch sinh thái mà đồng bào một số dân tộc, cư dân sinh sống trong vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo tồn có được việc làm, nâng cao mức sống, các lễ hội, tập tục, ngành nghề thủ công được bảo tồn và phát triển.

    CHƯƠNG 2THỰC TẾ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM
    2.1 Điều kiện để phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam
    Việt Nam là quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đớI gió mùa. ắ diện tích đất nước bao phủ bởI các dăy núi, đồI và các cao nguyên. Bờ biển Việt Nam trảI dài trên 3200 km. Việt Nam là nơi cư trú của 12000 loài thực vật, 7000 loài động vật trong số đó có rất nhiều loài được liệt vào Sách Đỏ của thế giới. Đặc biệt là trong những năm 80 của thế kỉ trước, đó cú 5 loài động vật dạng lớn đă được phát hiện ở Việt Nam. Do điều kiện địa lư như vậy nên Việt Nam rất thích hợp để phát triển du lịch sinh thái.
    Hệ sinh thái ở Việt Nam bao gồm 12 loại điển h́nh:
    1. Hệ sinh thái rừng nhiệt đới.
    2. Hệ sinh thái rừng rậm gió mùa Èm thường xanh trên núi đá vôi
    3. Hệ sinh thái rừng khô hạn.
    4. Hệ sinh thái núi cao.
    5. Hệ sinh thái đất ngập nước.
    6. Hệ sinh thái ngập mặn ven biển.
    7. Hệ sinh thái đầm lầy.
    8. Hệ sinh thái đầm phá.
     
Đang tải...