Tiểu Luận Thực trạng nợ công tại việt nam giai đoạn 2007 - 2012

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word

    MỤC LỤC
    LỜI MỞ ĐẦU 3
    CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
    1.1 Khái niệm 4
    1.2 Phân loại nợ công. 5
    1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công. 5
    1.4 Các hình thức vay nợ: 6
    1.5. Các công cụ vay nợ. 6
    1.5.1 Vay nợ trong nước: 6
    1.5.2 Vay nợ nước ngoài: 7
    1.6. Quản lý nợ công. 8
    CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM TỪ 2007 - 2012. 9
    2.1 Thực trạng nợ công tại Việt Nam: 9
    2.1.1 Về quy mô nợ công. 10
    2.1.2 Về cơ cấu nợ công. 13
    2.1.3 Hệ số an toàn nợ giảm 14
    2.1.4 Về tính thanh khoản của các khoản nợ. 15
    2.1.5 Về chi phí vay nợ. 16
    2.1.6 Về tiền vay nợ. 16
    2.2 Những tác động tiềm tàng. 17
    2.3 Nguyên nhân. 18
    CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM . 21


    LỜI MỞ ĐẦU

    Nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính của mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mĩ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lí tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất kì thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Trong bối cảnh nước ta đang tích cực thực hiện kế hoạch tái cấu trúc nền kinh tế quốc dân, vấn đề nợ công cần được đặt ra và giải quyết một cách sáng suốt và thỏa đáng, vì tương lai phát triển của nền kinh tế và của đất nước. Theo thống kê của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia thì tổng nợ công của Việt Nam năm 2007 là 33,8% GDP đến cuối năm 2011 thì tỷ lệ này nâng lên 54.6% GDP. Tốc độ tăng nhanh như vậy là một điều đáng báo động với một nền kinh tế nhỏ, đang phát triển, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nông sản và sản phẩm ngành công nghiệp nhẹ như nước ta. Từ thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi: Tình hình nợ công và quản lí nợ công ở Việt Nam trong 5 năm trở lại đây như thế nào? Những điểm đạt được và những mặt hạn chế cần khắc phục ra sao để từ đó đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm quản lí có hiệu quả nợ công ở Việt Nam? Đó cũng là những nội dung chính sẽ được đề cập trong bài thuyết trình của nhóm 4:“Tình hình nợ công tại Việt Nam từ 2007 đến 2012.”
    Do sự hiểu biết còn hạn chế về nhiều mặt cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm làm bài nên bài làm của nhóm có thể có những sai sót. Mong cô nhận xét, hướng dẫn để nhóm có thể rút kinh nghiệm và đạt kết quả tốt hơn ở những bài làm sau.
    CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN

    1.1 Khái niệm

    Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập kỷ 80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mê-hi-cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay IMF. Đến tháng 10/1983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỷ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ. Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
    Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) nợ công là toàn bộ những khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó:
    - Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà nước.
    - Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.
    Theo quan điểm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) nợ công bao gồm nợ của khu vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:
    - Khu vực tài chính công gồm: Tổ chức tiền tệ (nhân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).
    - Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ chức chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.
    Theo Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009 của Việt Nam quy định nợ công bao gồm:
    - Nợ chính phủ: Là các khoản nợ được kí kết, phát hành nhân danh nhà nước hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài Chính kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ do NHNNVN phát hành nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
    - Nợ được chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của DN, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...