Tiến Sĩ Thực trạng nhiễm sán lá truyền qua cá trên người, yếu tố liên quan và hiệu quả một số giải pháp can

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 1/9/16.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ

    Các bệnh sán lá truyền qua cá bao gồm sán lá gan nhỏ và sán lá ruột
    nhỏ là những bệnh có tỷ lệ mắc tương đối cao ở một số Quốc gia trên Thế
    giới, đặc biệt là khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam. Theo thống kê của
    WHO, hiện nay có khoảng 45 triệu người trên Thế giới nhiễm sán lá gan nhỏ,
    trong đó Châu Á có ít nhất 35 triệu người nhiễm các loài sán lá này [1],[2].
    Còn bệnh sán lá ruột nhỏ cũng có tỷ lệ nhiễm song hành tương tự như sán lá gan
    nhỏ do tính chất lây truyền và dịch tễ hoàn toàn giống sán lá gan nhỏ [3].
    Nhiễm sán lá truyền qua cá là những bệnh gắn liền với tập quán, thói
    quen ăn gỏi cá đã có từ lâu đời ở nhiều địa phương trong cả nước. Tại Việt
    Nam, cho đến nay đã xác định có ít nhất 32 tỉnh mắc bệnh sán lá truyền qua
    cá, trong đó có 24 tỉnh mắc bệnh sán lá gan nhỏ và 18 tỉnh có bệnh sán lá ruột
    nhỏ lưu hành [3],[4]. Tỷ lệ nhiễm bệnh ở các khu vực là khác nhau, tại các
    tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ trung bình là 17,23% [5].
    Điều đáng chú ý là nếu nhiễm sán lá gan nhỏ kéo dài sẽ ảnh hưởng đến chức
    năng gan, gây nhiễm độc kéo dài và dẫn đến xơ gan, ung thư đường mật [6].
    Tuy vậy, kể từ khi nhiễm sán lá gan nhỏ đến khi xuất hiện các triệu chứng
    bệnh lý là cả một thời gian dài không có triệu chứng lâm sàng hoặc các triệu
    chứng không rõ ràng. Cho đến khi triệu chứng tổn thương gan đã rõ, nhiều
    người vẫn không nghĩ nguyên nhân là do sán lá gan nhỏ, vì thế bệnh ít được
    người dân quan tâm phòng chống.
    Bệnh sán lá ruột nhỏ cũng mắc rải rác ở nhiều địa phương trong cả
    nước và cũng gây tác hại đáng kể. Nhưng thực ra người ta chỉ biết và quan
    tâm nhiều đến bệnh sán lá ruột lớn ký sinh ở người và ở lợn (Fasciolopsis
    buski). Còn bệnh sán lá ruột nhỏ truyền qua cá nước ngọt do ăn cá chưa nấu
    chín hoặc ăn gỏi cá vẫn chưa được nhiều người biết đến kể cả tác hại của nó. 2

    Huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá là một trong những khu vực trọng
    điểm, tại đây tập quán ăn gỏi cá còn rất phố biến, chủ yếu là cá nước ngọt,
    người dân vẫn sử dụng phân người tươi để nuôi cá, làm trang trại [7]. Nhưng
    cho đến nay chưa có đủ tài liệu nghiên cứu, cũng như thống kê một cách
    khoa học về tình hình nhiễm bệnh này trong cộng đồng dân cư tại Nga Sơn
    là bao nhiêu. Tình hình nhiễm ấu trùng sán lá trên cá nước ngọt như thế nào.
    Loài sán này có đặc điểm gì khác so với khu vực khác. Kiến thức và hành vi
    thực hành của người dân về phòng chống bệnh ra sao. Những yếu tố nào có
    liên quan đến tình hình mắc bệnh. Tiến hành giải pháp can thiệp nào tại cộng
    đồng có hiệu quả để làm giảm tình hình mắc bệnh
    Việc xác định thực trạng nhiễm sán lá, yếu tố dịch tễ liên quan, cũng
    như kiến thức của mỗi người dân đối với bệnh này là hết sức cần thiết. Nhằm
    xây dựng các hoạt động phòng chống nhiễm sán lá tại địa phương đạt hiệu
    quả, nâng cao sức khỏe cộng đồng, giảm chi phí cho người bệnh và nhà nước.
    Xuất phát từ những yêu cầu khoa học và thực tiễn trên đây, chúng tôi tiến
    hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng nhiễm sán lá truyền qua cá trên
    người, yếu tố liên quan và hiệu quả một số giải pháp can thiệp tại huyện
    Nga Sơn, Thanh Hóa, năm 2013-2014”. Với các mục tiêu sau:
    1. Xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá truyền qua cá trên người, nhiễm
    ấu trùng trên cá và loài sán lá tại 4 xã ven biển huyện Nga Sơn, tỉnh
    Thanh Hoá.
    2. Xác định một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá ở người dân tại
    điểm nghiên cứu.
    3. Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp bằng điều trị và truyền thông
    giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh sán lá tại điểm nghiên cứu.
    3

    Chương 1
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Thông tin chung về bệnh sán lá truyền qua cá
    Các bệnh sán lá truyền qua cá bao gồm sán lá gan nhỏ và sán lá ruột
    nhỏ. Trên thế giới có 76 loài sán lá truyền qua cá, trong đó có 7 loài sán lá gan
    nhỏ thuộc họ Opisthorchiidae và 69 loài sán lá ruột nhỏ [8].
    Tại Việt Nam, sán lá truyền qua cá mới chỉ xác định có ít nhất 24 tỉnh
    có lưu hành bệnh sán lá gan nhỏ. Còn bệnh sán lá ruột nhỏ chưa có nhiều tài
    liệu thông báo về bệnh này ở các tỉnh trong cả nước, có thể trứng sán lá ruột
    nhỏ rất giống trứng sán lá gan nhỏ. Mặc khác chu kỳ lây truyền bệnh sán lá
    ruột nhỏ hoàn toàn giống sán lá gan nhỏ. Vì vậy có thể vẫn dễ nhầm lẫn giữa
    2 loại sán lá này [8].
    Qua báo cáo của tác giả Phan VT và cộng sự (2010), hiện nay ẩm thực
    ăn gỏi cá có có xu hướng lan rộng ra nhiều vùng, miền trong toàn Quốc và cả
    một số Quốc gia trên Thế giới [9]. Trong khi thói quen dùng phân tươi nuôi
    cá hoặc phóng uế bừa bãi xuống ao hồ vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương
    trong cả nước. Vì vậy, tỷ lệ nhiễm sán lá vẫn còn cao và phát triển rộng hơn ở
    một số vùng có tập quán ăn gỏi cá nước ngọt này.
    - Loài sán lá gan nhỏ chủ yếu trên Thế giới
    + Thuộc ngành (Phylum) sán dẹt (Platyhelminthes)
    + Lớp (Class) sán lá (Trematoda)
    + Bộ (Order): Prosostomata
    + Họ (Family): Opisthorchiidae
    + Giống (Genus): Clonorchis có loài (Species) Clonorchis sinensis
    + Giống (Genus): Opisthorchis có loài (Species) Opisthorchis viverrini
    và loài Opisthorchis felineus 4

    Sán lá gan gây bệnh ở người gồm 12 loài thuộc 3 họ sán lá ký sinh ở
    ống mật và túi mật của gan, bất thường ký sinh ở ống tụy [6]:
    - SLGN thuộc họ Opisthorchiidae, gồm 7 loài: Clonorchis sinensis,
    Opisthorchis viverrini, O. felineus, Amphimerus norverca, Amphimerus
    pseudofelineus, Metorchis conjunctus và Pseudamphistomum trancatum.
    - Họ Dicrocoeliidae gồm 3 loài: Dicrocoelium dendriticum,
    Dicrocoelium hospes và Eurytrema pancreaticum.
    - Họ Fasciolidae gồm 2 loài: Fasciola hepatica và Fasciola gigantica.
    Trên thế giới chủ yếu ký sinh ở người có loài: Clonorchis sinensis,
    Opisthorchis viverrini, O. felineus truyền qua cá thuộc họ Opisthorchiidae và
    Dicrocoelium dendriticum thuộc họ Dicrocoeliidae, loài này truyền qua kiến
    nên chúng tôi không đề cặp đến trong luận án này [6].
    Ở Việt Nam đã xác định sự có mặt của 2 loài sán lá gan nhỏ truyền qua
    cá, đó là: Clonorchis sinensis có ở miền Bắc, Opisthorchis viverrini ở miền
    Nam và miền Trung thuộc họ Opisthorchiidae [6].
    - Loài sán lá ruột nhỏ
    Trên Thế giới có khoảng hơn 69 loài sán lá ruột nhỏ được biết là ký
    sinh ở người. Trong đó có 31 loài thuộc họ Heterophyidae, 21 loài thuộc họ
    Echinostomatidae, 5 loài thuộc họ Leicithodendriidae, 4 loài thuộc họ
    Plagiorchiidae. Họ Diplostomidae, Nanophyetidae và Paramphistomatidae
    mỗi họ có 2 loài. Còn họ Gastrodiscidae, Gymnophallidae, Microphllidae và
    Strigeidae mỗi họ có 1 loài [10].
    Tại Việt Nam, từ năm 2004 đến năm 2006, với phương pháp xét nghiệm
    Kato-katz và lắng cặn trong cộng đồng đã xác định bệnh sán lá ruột nhỏ lưu hành
    ít nhất 18 tỉnh trong cả nước. Tỷ lệ tăng theo nhóm tuổi, nam nhiễm cao hơn nữ.
    Trong thời gian này đã phát hiện 8 loài sán lá ruột nhỏ bao gồm: Haplorchis
    taichui, H. pumilio, H. yokogawai, Stellantchasmus falcatus, Centrocestus 5

    formosanus, Procerovum varium thuộc họ Heterophyidae và Echinochasmus
    japonicus và Echinostoma revolutum thuộc họ Echinostomatidae. Trong đó
    thường gặp nhất là loài Haplorchis taichui và H. pumilio thuộc họ
    Heterophyidae đã phát hiện ít nhất ở 9 tỉnh của Việt Nam [3],[4],[11].
    1.2. Lịch sử nghiên cứu về sán lá truyền qua cá
    1.2.1. Lịch sử nghiên cứu sán lá Clonorchis sinensis
    - Bệnh sán lá gan nhỏ (SLGN) đã được biết đến khá lâu, ít nhất hàng
    ngàn năm trước đây. Loài Clonorchis sinensis tồn tại ở Trung Quốc cách
    đây hơn 100 năm, lần đầu tiên vào năm 1875 được Meconell tìm thấy
    SLGN trong tử thi người Hoa ở Calcuta Ấn Độ, được Cobbold đặt tên là
    Distoma sinense. Năm 1907, Loss và Kobayashi dựa vào hình thái học của
    loài sán này thống nhất lấy tên là Clorochis sinensis. Trong tiếng La Tinh
    Clonos có nghĩa là phân nhánh, còn Orchis có nghĩa là tinh hoàn, Sinensis
    có nghĩa là Trung Quốc [6].
    - Đến năm 1910, Kobayashi xác định được vật chủ trung gian thứ hai
    của Clonorchis sinensis là họ cá chép Cyprinidae [6].
    - Đến năm 1918, Muto xác định được vật chủ trung gian thứ nhất của
    Clonorchis sinensis là ốc nước ngọt [6].
    Bệnh phân bố ở phía Đông Châu Á từ Việt Nam đến Nhật Bản, gồm :
    Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và Bắc Việt Nam.
    - Tại Việt Nam, C. sinensis được Grall phát hiện và thông báo ca sán
    đầu tiên vào năm 1887 ở miền Bắc. Năm 1909 (Mathis và Le

    ger) đã tìm thấy
    C. sinensis trên một công dân Pháp ở Việt Nam. Tại Sài Gòn đã thông báo có
    291 người nhiễm C. sinensis, nhưng chủ yếu những người này có nguồn gốc
    từ miền Bắc di cư vào Nam. Đến năm 1965, Đặng Văn Ngữ và Đỗ Dương
    Thái phát hiện một trường hợp nhiễm C. sinensis phối hợp với O. felineus ở
    Việt Nam [6]. 6

    - Từ năm 1976 – 2002, Viện Sốt rét- Ký sinh trùng và Côn trùng Trung
    ương đã xác định bệnh do loài C. sinensis lưu hành chủ yếu ở miền Bắc. Đã
    có ít nhất ở 12 tỉnh thành nhiễm bệnh, tỷ lệ nhiễm trung bình là 19% (Kiều
    Tùng Lâm và cộng sự, 1992). Có địa phương nhiễm tới 37% như tỉnh Nam
    Định, có nơi bệnh phân bố trên toàn tỉnh như tỉnh Hòa Bình (Nguyễn Văn Đề
    và cộng sự, 1996, 1998, 2002, 2003) [6].
    1.2.2. Lịch sử phát hiện bệnh Opisthorchis viverrini
    - Loài Opisthorchis viverrini được phát hiện ở các nước Châu Á, Đông
    Nam Á vào năm 1984, như: Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Malaysia, Việt Nam,
    Campuchia . Đặc biệt ở Thái Lan, qua điều tra 60 làng năm 1994 trong 7 tỉnh
    Đông Bắc Thái Lan có tỷ lệ nhiễm O. viverrini từ: 8 - 68% (Sithishaworn và
    cộng sự, 1994) [6].
    - Tại Việt Nam: Năm 2008, Nguyễn Văn Chương và cộng sự đã điều
    tra phát hiện loài Opisthorchis viverrini tại 2 tỉnh: Phú Yên và Bình Định, với
    tỷ lệ nhiễm từ 3,92% - 7,67% [12].
    1.2.3. Lịch sử nghiên cứu sán lá ruột nhỏ
    - Tình hình nghiên cứu trên thế giới
    Sán lá ruột nhỏ ký sinh ở người được thông báo tại Nhật Bản, Trung
    Quốc, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan, Lào,
    Bangladesh, Ai Cập, Sudan, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Tunisia, Siberia, Israel, Tây
    Ban Nha, Brazil, Mỹ, Greenland [3].
    - Tình hình nghiên cứu sán lá ruột nhỏ ở Việt Nam
    Theo thông báo của Nguyễn Văn Đề, từ năm 2004 - 2006, đã xác định
    sán lá ruột nhỏ lưu hành ít nhất tại 18 tỉnh, gồm: Yên Bái, Phú Thọ, Điện
    Biên, Lào Cai, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Tây (cũ), Nam
    Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hải Phòng, Thái Bình, Nghệ An, Thừa Thiên
    Huế, Lâm Đồng và An Giang [3]. 7

    1.3. Một số đặc điểm dịch tễ về bệnh sán lá truyền qua cá
    1.3.1. Đặc điểm dịch tễ của sán lá gan nhỏ [3]
    - Nguồn bệnh là các động vật nuôi như: chó, mèo, lợn, chuột cống và
    con người nhiễm bệnh thải trứng ra ngoài môi trường nước.
    - Đường lây truyền là do ăn cá chưa nấu chín dưới các hình thức như:
    gỏi cá, lẩu cá, cá nướng, cá hấp, cá om dưa. Vật chủ trung gian thứ nhất là ốc
    Bithynia mang cercaria, vật chủ trung gian thứ 2 là các loài cá nước ngọt (mè,
    trôi, chép, trắm, diếc, rôphi) mang metacercaria.
    - Khối cảm thụ là các động vật cũng như nguồn bệnh.
    - Phân bố: Ở các vùng có tập quán ăn gỏi cá hay cá nước ngọt chưa nấu
    chín có chứa ấu trùng, chủ yếu là một số Quốc gia Châu Âu, Châu Á, đặc biệt
    là khu vực Đông Nam Á.
    1.3.2. Đặc điểm dịch tễ sán lá ruột nhỏ [3]
    Chu kỳ tương tự như với sán lá gan nhỏ, bệnh sán lá ruột nhỏ phụ thuộc
    tập quán ăn gỏi cá. Do vậy, vùng dịch tễ sán lá gan nhỏ cũng là vùng dịch tễ
    sán lá ruột nhỏ và mức độ nhiễm cũng song song với nhau. Cá bị ô nhiễm bởi
    ấu trùng sán lá ruột nhỏ thường cao hơn nhiều so với sán lá gan nhỏ.
    Vật chủ dự trữ mầm bệnh (reservoir) giống như với sán lá gan nhỏ,
    ngoài ra còn có nhiều động vật khác như: Gia cầm, chim tự nhiên là vật chủ
    của sán lá ruột nhỏ . nên sự phân bố của sán lá ruột nhỏ rất rộng lớn.
    Vật chủ trung gian thứ nhất (First intermediate host) là ốc, còn gọi là
    vật chủ phụ, có hai loại ốc là: P. striatulus và M. tuberculatus.
     
Đang tải...