Luận Văn Thực trạng nguồn lao động và việc làm ở huyện Triệu Sơn

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Nguồn lao động và việc làm ở huyện Triệu Sơn -Thanh Hoa(76 trang)

    Lời mở đầu

    Nông thôn Việt Nam là một bộ phận hợp thành chủ yếu của đất nước, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bắt đầu từ công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nguồn nhân lực nông thôn là bộ phận cơ bản trong nội lực của đất nước. Phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực nông thôn không chỉ có ý nghĩa là quan trọng mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội trọng đại.

    Ngày nay dân tộc ta, nhân dân ta đang bước vào một cuộc chiến đấu mới vì cuộc sống ấm no hạnh phúc, vì công bằng xã hội. Đất nước ta, thời cơ lịch sử của sự phát triển đã đến. Công cuộc đổi mới đang diễn ra nhanh chóng và vững chắc. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra động lực và môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình tổ chức sản xuat-kinh^' doanh thật sự bình đẳng trước pháp luật và hoạt động có hiệu quả. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá hiện đại hoá được tạo ra. Nhưng thách thức lớn với nước ta là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là nguy cơ nổi lên rất gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp kéo theo hiệu quả xấu về công ăn việc làm.

    Lao động và việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu là mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia. Việc làm ở nước ta là một trong những vấn đề xã hội gốc rễ căn bản nhất. Giải quyết đủ việc làm cho người lao động tiến tới việc làm ổn định có hiệu quả được tự do lựa chọn việc làm chính là giải quyết tận gốc những căn nguyên, nguồn gốc sâu xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, đảm bảo giữ gìn trật tự kỷ cương và an toàn xã hội.

    Triệu Sơn là huyện có dân số khá đông đứng thứ sáu trong tỉnh, và là huyện có tập quán canh tác thuần nông kinh tế chậm phát triển, hàng năm có một số lượng lớn người bước vào độ tuổi lao động song chất lượng nguồn lao động còn hạn chế nên gặp khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Do đó việc đưa ra các chính sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động và giải quyết việc làm là cần thiết và rất quan trọng.

    Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề lao động và việc làm trong giai đoạn hiện nay cùng với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS Mai Quốc Chánh

    Chú: Nguyễn Xuân Khâm trưởng phòng lao động TB XH huyện Triệu Sơn

    Chú: Lê Ngọc Long phụ trách công tác lao động việc làm phòng LĐ TBXH huyện Triệu Sơn.

    Cùng các bác các chú phòng lao động TBXH huyện Triệu Sơn.

    Nên tôi đã đi sâu nghiên cứu thực hiện đề tài: “Nguồn lao động và việc làm ở huyện Triệu Sơn -Thanh Hoa”' làm luận văn tốt nghiệp.

    Nội dung luận văn gồm có ba phần:

    Phần I : Mối quan hệ giữa lao động và việc làm.

    Phần II : Thực trạng nguồn lao động và việc làm ở huyện Triệu Sơn.

    Phần III : Các giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa lao động và việc làm ở huyện Triệu Sơn.












    Sự cần thiết của đề tài

    Huyện Triệu Sơn hiện nay, hàng năm có khoảng trên 5 nghìn người bước vào độ tuổi lao động cùng với số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường phổ thông chuyên nghiệp dạy nghề và đại học chưa tìm việc làm tồn tại qua nhiều năm, cộng với một số lượng thanh niên hết nghĩa vụ quân sự xuất ngũ và những người dôi dư do sắp xếp lại cơ quan, doanh nghiệp đã tạo thành một lực lượng khá đông những người có nhu cầu làm việc.

    Trước một thực tế như trên đòi hỏi phải có một giải pháp toàn diện và đồng bộ cho vấn đề giải quyết việc làm ở huyện Triệu Sơn. Tuy nhiên do tính chất phức tạp và khó khăn của nền kinh tế, chúng ta chưa thể giải quyết một cách triệt để tất cả các vấn đề mấu chốt trong đó lấy chính sách phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là trọng tâm để từng bước giải quyết vấn đề việc làm ở huyện Triệu Sơn trong giai đoạn năm 2000-2010

    Mục đích của đề tài :

    Đánh giá được nguồn nhân lực trên địa bàn huyện về:

    - Thực trạng nguồn nhân lực

    - Thực trạng thiếu việc làm, nguyên nhân và cơ cấu lao động thiếu việc làm

    - Tác động về chính sách và giải pháp về lao động việc làm

    - Những vấn đề cần quan tâm về chính sách và giải pháp nhằm nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao động, tư vấn việc làm, dạy nghề cho người lao động ở địa bàn huyện.

    Trên cơ sở đó cung cấp những căn cứ có thực tiễn, đề xuất nhứng giải pháp thích hợp phục vụ cho công việc lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ Đảng chính quyền địa phương về chiến lược phát triển nguồn lao động giải quyết việc làm giai đoạn 2000-2010.

    Phương pháp tiến hành :

    - Tham khảo nghiên cứu số liệu về lao động việc làm các năm 1997-1998 ở huyện

    - Chọn địa bàn điểm, đại diện cho tính đặc thù các vùng về lao động việc làm ở huyện Triệu Sơn là:

    + Thị trấn Triệu Sơn: Đại diện cho vùng trung tâm văn hoá dịch vụ thương mại

    + Xã Bình Sơn: Đại diện cho 4 xã miền núi

    + Xã Dân Quyền: Đại diện cho các xã đồng bằng trồng lúa

    + Xã Thọ Vực: Đại diện cho các xã có tập quán canh tác cây màu chăn nuôi gia súc và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp

    Từ đó điều tra khảo sát, thu nhập tình hình lao động việc làm nhằm rut ra các yêu cầu cần thiết để phục vụ đề tài.

    Phần I

    Mối quan hệ giữa lao động và việc làm

    I-Khái niệm cơ bản

    1-Khái niệm nguồn lao động

    11.- Khái niệm về lao động

    Theo giáo trình Tổ chức lao động khoa học:

    Lao động là hoạt động có mục đích của con người, nhằm thoả mãn những nhu cầu về đời sống của mình, là điều kiện tất yếu để tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

    12.- Khái niệm nguồn lao động

    Nguồn lao động gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, nhưng đang thất nghiệp, những người đang đi học đang làm nội trợ trong gia đình mình, hoặc không có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ luật lao động)

    Quy mô về nguồn lao động phụ thuộc vào 3 yếu tố sau đây:

    - Quy mô phát triển dân số: Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại

    - Tỷ lệ nguồn lao động trong dân số

    - Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước

    Dân số và nguồn lao động là hai phạm trù có tính tương đối độc lập với nhau. Quy mô và cơ cấu dân số quyết định đến quy mô và cơ cấu của nguồn lao động, dân số đông tỷ lệ nguồn lao động trong dân số lớn và ngược lại. Nguồn lao động trong dân số bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động không kể đến tình trạng có việc làm hoặc không có việc làm. Có nghĩa là tất cả những người có khả năng lao động trong dân số, tính theo tuổi lao động quy định đều thuộc nguồn lao động.

    Tuỳ theo đặc điểm dân số từng nước mà tỷ lệ nguồn lao động trong dân số có khác, nhưng nhìn chung tỷ lệ này thường lớn hơn 50% dân số (xấp xỉ 52%)

    Xuất phát từ đặc điểm dân số của từng nước như vậy mà số người trong độ tuổi lao động của mỗi nước cũng khác. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển tỷ lệ nguồn lao động thấp (khoảng 55 - 57%) so với các nước công nghiệp phát triển (khoảng 64 - 66%) chính vì thế mà gánh nặng về số người không lao động ở các nước nghèo càng nặng hơn, sức ép về lao động và việc làm ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển ngày càng nặng nề. Đối với những người trong độ tuổi lao động theo quy định của nhà nước ta là: 15 - 55 tuổi đối với nữ và 15 - 60 tuổi đối với nam.

    Để xác định khả năng lao động của xã hội, người ta quy định ra loại lao động chính theo tỷ lệ 1: 3 đối người dưới tuổi và 1: 2 đối với người trên tuổi lao động

    Tiềm năng nguồn lao động và việc sử dụng hợp lý nguồn lao động ở mỗi quốc gia, mỗi hình thái kinh tế xã hội khác thì có quan điểm khác về lao động từ đó xây dựng tiềm năng về nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động đã được giới hạn độ tuổi trong dân số tuỳ theo từng nước mà nó được bao gồm nguồn lao động đang tham gia vào hoạt động kinh tế và nguồn lao động có khả năng lao động nhưng vì nhiều lý do khác nhau chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (nguồn lao động dự trữ).

    Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế. Đây là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hoá xã hội.

    Như vậy, giữa nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế có sự khác nhau. Sự khác nhau này là do có một bộ phận những người trong độ tuổi có khả năng lao động, nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang học tập, có thu nhập khác không cần đi làm .)

    Nguồn nhân lực dự trữ: Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có công việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực gồm có:

    + Những người làm công việc nội trợ trong gia đình: Khi điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội, họ có thể nhanh chóng rời bỏ hoạt động nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. Đây là nguồn nhân lực đáng kể, tuyệt đại bộ phận là phụ nữ, hằng ngày vẫn đảm nhiệm những chức năng duy trì bảo vệ, phát triển gia đình về nhiều mặt. Đó là những hoạt động có ích và cần thiết. Công việc nội trợ gia đình đa dạng, vất vả đối với phụ nữ ở các nước chậm phát triển (do còn phải làm bằng chân tay nhiều). Từ đó dẫn đến mức năng suất lao động thấp so với những công việc tương tự được tổ chức ở quy mô lớn hơn, có trang bị kỹ thuật cao hơn.

    + Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có học vấn, có trình độ chuyên môn (nếu độ tuổi này được đào tạo tại các trường dạy nghề và các trường trung cấp, đại học). Tuy nhiên, khi nghiên cứu nguồn nhân lực này cần phân chia tỷ mỷ hơn.

    - Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, tốt nghiệp trung học phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm.

    - Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, chưa học hết phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm.

    - Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp (trung cấp, cao đẳng, đại học) thuộc các chuyên môn khác nhau tìm việc làm.

    + Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ, có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Số người thuộc nguồn nhân lực dự trữ này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề, trình độ văn hoá sức khoẻ . để từ đó tạo công ăn việc làm thích hợp.

    + Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm cũng là nguồn nhân lực dự trữ sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế. Đây là nguồn lao động dự trữ quan trọng có trình độ văn hoá, có chuyên môn khoa học kỹ thuật khi có điều kiện tham gia lao động xã hội họ sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả sản xuất.

    Qua nghiên cứu người ta đưa ra kết luận: ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển tiềm năng về nguồn lao động là hết sức to lớn, nguồn lao động dự trữ có khả năng lao động, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải tạo nhiều việc làm để đảm bảo mọi người lao động đều có quyền làm việc.

    Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động thực chất là việc phân bố nguồn lao động một cách hợp lý sao cho việc sử dụng các nguồn lao động này đạt được mục đích là tăng trưởng và phát triển nền kinh tế xã hội.

    Phân bố nguồn lao động chính là việc phân phối, bố trí hình thành các nguồn lao động theo quy luật, xu hướng tiến bộ vào các lĩnh vực hoạt động, các ngành kinh tế các vùng lãnh thổ, xét về bản chất thì đó chính là sự đổi mới tình trạng phân công lao động xã hội ngày càng tiến bộ hơn và đạt trình độ ngày càng cao hơn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...