Tài liệu Thực trạng kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm, xác định kết quả tiêu thụ tại công ty dệt vải

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Thực trạng kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm, xác định kết quả tiêu thụ tại công ty dệt vải công nghiệp Hà nội

    Phần ILý luận chung về kế toán thành phẩm,tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quảtiêu thô trong doanh Nghiệp sản xuấtI. ý nghĩa và sự cần thiết của kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ trong doanh nghiệp sản xuất.1. Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm.Theo quy luật tái sản xuất quá trình hoạt động trong doanh nghiệp sản xuất bao gồm: cung ứng, sản xuất, tiêu thụ, các giai đoạn này diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Sản phẩm của giai đoạn sản xuất đó chính là thành phẩm và nửa thành phẩm, trong đó thành phẩm chiếm đại bộ phận. Thành phẩm trong doanh nghiệp là những sản phẩm được gia công chế biến xong ở bước công nghệ cuối cùng của quy trình công nghệ sản xuất, sản phẩm được kiểm tra kỹ thuật đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định, được nhập kho hoặc tiêu thụ ngay. Còn nửa thành phẩm là những sản phẩm mới kết thúc một hoặc một số công đoạn trong quy trình công nghệ sản xuất (trừ công đoạn cuối cùng) được nhập kho hoặc chuyển giao để tiếp tục chế biến hoặc có thể bán ra ngoài. Khi đó nó cũng có ý nghĩa như thành phẩm. Vì vậy khái niệm giữa nửa thành phẩm và thành phẩm là những khái niệm chỉ xét trong phạm vi mét doanh nghiệp bởi thành phẩm của doanh nghiệp này có thể là nửa thành phẩm của doanh nghiệp khác và ngược lại. Do đó việc xác định đúng đắn thành phẩm trong từng doanh nghiệp là vấn đề hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Nó phản ánh toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp về quy mô, trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý.
    Bất kỳ loại thành phẩm nào cũng biểu hiện trên hai mặt: số lượng và chất lựơng. Mặt số lượng phản ánh quy mô, thành phần mà đơn vị tạo ra nó và được đo bằng đơn vị kg, mét .Chất lượng của thành phẩm phản ánh giá trị sử dụng của thành phẩm và được xác định bằng tỷ lệ tốt, xấu hoặc phẩm cấp của sản phẩm. Đây là hai mặt độc lập của một thể thống nhất và có quan hệ biện chứng với nhau. Đó là nguyên nhân giải thích tại sao khi nghiên cứu, quản lý và hạch toán thành phẩm ta luôn phải đề cập tới hai mặt này.
    Quản lý chặt chẽ thành phẩm là việc làm cần thiết bởi ý nghĩa quan trọng của thành phẩm đối với nền kinh tế nói chung và bản thân doanh nghiệp nói riêng. Thành phẩm là thành quả lao động sáng tạo của toàn bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, mọi tổn thất của thành phẩm đều ảnh hưởng đến thu nhập của đơn vị nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Hơn nữa khi sự phân công lao động ngày càng phát triển thì các ngành sản xuất, các đơn vị có liên quan chặt chẽ, bổ xung hỗ trợ cho nhau, thành phẩm của đơn vị này, ngành này lại là điều kiện sản xuất, là nguyên liệu cho đơn vị khác. Việc hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất thành phẩm của đơn vị cả về số lượng, chất lượng, thời gian sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị khác, đến việc đảm bảo đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của xã hội.
    Để quản lý về số lượng thành phẩm đòi hỏi phải thường xuyên phản ánh, giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm. Về mặt chất lượng phải làm tốt công tác kiểm tra, phân cấp và có chế độ bảo quản riêng đối với từng loại quý hiếm, dễ hỏng hóc, kịp thời phát hiện các mặt hàng kém phẩm chất để có biện pháp xử lý thích hợp. Phải thường xuyên cải tiến mẫu mã sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng kích thích nhu cầu tiêu dùng của xã hội tránh tình trạng ứ đọng sản phẩm vì hàng kém phẩm chất, lỗi thời, lạc mốt.
    2. Tiêu thụ và yêu cầu của việc tiêu thụ thành phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra muốn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội phải thông qua khâu tiêu thụ. Do đó các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó.
    Trong nền kinh tế thị trường, công tác tiêu thụ thành phẩm và tổ chức tiêu thụ thành phẩm đã được nâng lên thành vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Cơ chế thị trường đã tạo ra một nền kinh tế tự do cạnh tranh, giá cả do quan hệ cung cầu quyết định nên mỗi doanh nghiệp phải tự chủ trong việc tổ chức tiêu thụ thành phẩm bao gồm các khâu từ nghiên cứu thị trường, xây dựng chiến lược, kế hoạch tiêu thụ, thực hiện nguyên tắc tự chịu trách nhiệm nhằm mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
    Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất và là giai đoạn cuối cùng của vòng tuần hoàn vốn trong doanh nghiệp. Đây chính là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị của sản phẩm, hàng hoá trong đó doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả. Quá trình tiêu thụ kết thúc khi cả hai điều kiện sau được bảo đảm:
    - Doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm cho người mua.
    - Đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả.
    Điều đó có nghĩa là trong quá trình tiêu thụ phải có sự thoả thuận giữa hai người mua và bán, phải có sự thay đổi quyền sở hữu về sản phẩm và cả hai bên đều thực hiện quá trình chuyển đổi giữa hàng và tiền.
    Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ được sản phẩm mới có vốn để tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay của vốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
    Trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng và là sự quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là làm thế nào để sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của mình tiêu thụ trên thị trường, được thị trường chấp nhận về các phương diện chất lượng, giá cả, mẫu mã . Đó là vấn đề sống còn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Sau quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà còn thực hiện được giá trị thặng dư. Đây là tiền đề quan trọng mở rộng quy mô sản xuất, tăng thu nhập cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên và tăng ngân sách nhà nước.
    Với các doanh nghiệp bạn có quan hệ sản xuất trực tiếp với doanh nghiệp, việc cung cấp sản phẩm kịp thời, đúng hạn, đúng quy cách phẩm chất, đúng yêu cầu số lượng sẽ giúp doanh nghiệp hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất đề ra trên cơ sở đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
    Như vậy, xét trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện tốt khâu tiêu thụ thành phẩm là cơ sở cho sự cân đối giữa sản phẩm và tiêu dùng, tiền và hàng đồng thời cũng đảm bảo sự cân đối sản xuất trong từng ngành. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay khi quan hệ kinh tế đối ngoại đang phát triển mạnh mẽ thì việc tiêu thụ thành phẩm của mỗi doanh nghiệp có thể tạo nên uy tín của đất nước trên thị trường quốc tế, góp phần tạo nên sự cân đối của cán cân thanh toán quốc tế.
    Chính vì tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng nh­ vậy nên đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ quá trình này, cụ thể:
    -Quản lý quá trình tiêu thụ là quản lý về kế hoạch và mức độ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ cả về số lượng, chất lượng, giá trị sản phẩm . trong quá trình vận động từ khâu xuất bán cho đến khi thu được tiền bán hàng. Công tác quản lý đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi, chỉ đạo quá trình bán hàng theo kế hoạch đã định, kịp thời phát hiện những biến động của thị trường để điều chỉnh kinh doanh sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
    - Quản lý về giá cả từ khâu xây dựng giá đến khâu thực hiện giá, doanh nghiệp phải xây dựng một biểu giá hợp lý cho từng mặt hàng, từng phương thức bán hàng, từng địa điểm kinh doanh.
    -Theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán, từng khách hàng, đôn đốc thanh toán, thu hồi đầy đủ và kịp thời tiền vốn, tính toán xác định đúng kết quả tiêu thụ của từng loại thành phẩm.
    Thực tế ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp không những phải cạnh tranh với các sản phẩm trong nước mà cả với những sản phẩm, hàng hoá của nước ngoài nhập về. Thị trường Việt Nam đã được các hãng sản xuất trên thế giới tìm đến và xâm nhập một cách mạnh mẽ. Do vậy, các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế mở này thì đều phải tìm hiểu khách hàng và nhu cầu của họ, có biện pháp kích thích họ mua hàng đồng thời phải tìm kiếm những thị trường có tiềm năng lớn để tiêu thụ thành phẩm của mình, có khả năng dự báo tình hình thị trường trong tương lai. Có nh­ vậy các doanh nghiệp mới có thể chiếm lĩnh được thị trường cũ và xâm nhập, mở rộng thị trường mới ở trong nước và nước ngoài.
    3. Xác định kết quả tiêu thụ.Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh đều nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Quá trình tiêu thụ là một quá trình kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp, nó trực tiếp mang lại thu nhập cho doanh nghiệp và thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Thu nhập từ tiêu thụ thành phẩm trang trải các chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Một doanh nghiệp có các kênh tiêu thụ phong phú với các chính sách khuyến khích việc tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều, thu hồi vốn nhanh, tăng nhanh tốc độ vòng quay của vốn, tiết kiệm vốn lưu động, hiện đại hoá sản xuất cả về tốc độ lẫn trình độ kỹ thuật . từ đó giúp doanh nghiệp dễ dàng thực hiện được các mục tiêu tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận.
    Để biết được trong kỳ kinh doanh của mình có đạt được các mục tiêu đó không doanh nghiệp cần phải có những thống kê về các khoản doanh thu, các khoản chi phí và tính toán kết quả của các hoạt động kinh doanh trong kỳ. Kết quả của quá trình tiêu thụ đánh giá một cách chính xác hiệu quả của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, có vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển hay suy thoái của đơn vị. Dựa vào kết quả tiêu thụ doanh nghiệp có thể phân tích được mặt hàng nào, sản phẩm nào có kết quả cao và xu hướng như thế nào để từ đó có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh chúng hoặc chuyển hướng sang sản xuất kinh doanh mặt hàng khác.
    Như vậy xác định kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp cho chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, các cơ quan chủ quản, quản lý tài chính, thuế . nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp để từ đó lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả, giám sát việc chấp hành chính sách, chế độ kinh tế tài chính.
    Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của nó, việc xác định kết quả tiêu thụ phải thực hiện yêu cầu sau:
    - Thường xuyên kiểm tra công việc và tình hình thực hiện hợp đồng bán hàng, tính toán xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
    - Phân tích những nguyên nhân, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình biến động lợi nhuận.
    -Tổ chức phân tích báo cáo kết quả kinh doanh, tư vấn cho chủ doanh nghiệp và giám đốc lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả.
    4. Sự cần thiết phải hoàn thiện quá trình hạch toán nghiệp vụ thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ trong doanh nghiệp sản xuất.Đối với doanh nghiệp, tổ chức tốt công tác kế toán thành phẩm sẽ tạo điều kiện để sản xuất phát triển, từng bước hạn chế sự thất thoát của thành phẩm, phát hiện ra những thành phẩm chậm luân chuyển để có biện pháp xử lý thích hợp, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn.
    Từ số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ cung cấp, chủ doanh nghiệp có thể đánh giá được mức độ hoàn thành kế hoạch về sản xuất, giá tiêu thụ và lợi nhuận. Dựa vào đó, chủ doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp tối ưu đảm bảo duy trì sự cân đối thường xuyên giữa các yếu tố đầu vào-sản xuất- đầu ra. Cũng dựa vào đó nhà nước có thể nắm bắt được tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát vĩ mô nền kinh tế, đồng thời nhà nước có thể kiểm soát việc chấp hành luật pháp về kinh tế tài chính nói chung và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với ngân sách nhà nước, nghĩa vụ tài chính với các bên có quan hệ kinh tế nói riêng.
    Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp ngoài mối quan hệ với nhà nước còn có thể liên doanh liên kết với đơn vị bạn hoặc các công ty nước ngoài để thu hút vốn đầu tư, cải tiến quy trình công nghệ . Khi đó kế toán không chỉ là công cụ điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh mà còn là phương tiện để kiểm tra, giám sát những người chủ sở hữu doanh nghiệp, những người có quan hệ kinh tế và lợi Ých với doanh nghiệp như các nhà đầu tư, những người cho vay, các bạn hàng . Với những số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ, họ có thể biết được khả năng sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng của doanh nghiệp để từ đó ra các quyết định đầu tư, cho vay hoặc có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp.
    Vì sản xuất là cơ sở của tiêu thụ nên có thể nói rằng kế toán thành phẩm và tiêu thụ có mối quan hệ mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau. Kế toán thành phẩm có chính xác, đầy đủ và kịp thời, phản ánh rõ tình hình nhập, xuất thì kế toán tiêu thụ mới phản ánh và giám đốc kịp thời kế hoạch, thực hiện tiêu thụ về số lượng, doanh thu tiêu thụ, tình hình thanh toán tiền hàng, thanh toán với ngân sách nhà nước và xác định được chính xác kết quả tiêu thụ. Ngược lại tổ chức tốt kế toán tiêu thụ sẽ tạo điều kiện cho kế toán thành phẩm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Do vậy hoàn thiện quá trình hạch toán nghiệp vụ thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ là một vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Để làm tốt nghiệp vụ này, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm cần thực hịên các yêu cầu sau:
    -Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời, giám sát chặt chẽ về tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm trên cả hai mặt số lượng và giá trị.
    -Theo dõi, phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ, ghi chép kịp thời, đầy đủ chi phí liên quan đến việc bán hàng, thu nhập bán hàng.
    - Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp, phản ánh và giám đốc tình hình phân phối kết quả, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
    Thực hiện tốt các yêu cầu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quản lý chặt chẽ thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ. Tuy nhiên để phát huy được vai trò và thực hiện tốt các yêu cầu đó đòi hỏi phải tổ chức kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ thật khoa học hợp lý, đồng thời cán bộ kế toán phải nắm vững nội dung của việc tổ chức công tác kế toán đó.
    II.nội dung Kế toán thành phẩm.1. Yêu cầu của công tác kế toán thành phẩm:Thành phẩm của các doanh nghiệp thường rất đa dạng và phong phú về chủng loại, mẫu mã, việc tổ chức một cách khoa học công tác kế toán thành phẩm là việc làm rất cần thiết và không thể thiếu được đối với một doanh nghiệp sản xuất. Để đảm bảo được điều đó kế toán cần phải thực hiện các yêu cầu sau:
    - Tổ chức kế toán thành phẩm theo từng loại, từng thứ thành phẩm, theo từng đơn vị sản xuất theo đúng số lượng và chất lượng thành phẩm.Từ đó làm cơ sở để xác định kết quả kinh doanh của từng đơn vị, từng phân xưởng .và có số liệu để so sánh với các chỉ tiêu kế hoạch.
    - Phải có sự phân công và kết hợp trong việc ghi chép thành phẩm giữa phòng kế toán và nhân viên hạch toán phân xưởng, giữa kế toán với thủ kho thành phẩm đảm bảo cho số liệu kế toán thành phẩm được chính xác kịp thời.
    - Kế toán nhập, xuất, tồn kho thành phẩm có thể được đánh giá tuỳ theo đặc điểm của từng doanh nghiệp. Thành phẩm trong kho thường luôn biến động, do đó cần tổ chức công tác ghi chép ban đầu thật khoa học hợp lý.
    2. Tính giá thành phẩm:Tính giá thành phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị thành phẩm theo
    nguyên tắc nhất định.Trong kế toán có thể sử dụng một trong hai cách đánh giá thành phẩm:
    2.1. Giá thực tế· Thành phẩm nhập kho:
    Đối với thành phẩm do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và phụ hoàn thành nhập kho, giá thành thực tế chính là giá thành công xưởng thực tế (bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung).
    Trường hợp thành phẩm thuê ngoài gia công, giá thành thực tế bao gồm toàn bộ các chi phí liên quan đến việc gia công (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí thuê gia công và các chi phí khác: vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt .)
    · Thành phẩm xuất kho:
    Đối với thành phẩm xuất kho tuỳ từng điều kiện cụ thể doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương pháp sau:
    2.1.1. Giá đơn vị bình quân
    Theo phương pháp này giá thực tế thành phẩm xuất kho được tính theo giá trị bình quân (bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân cuối kỳ trước hoặc bình quân sau mỗi lần nhập).

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]=

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]x

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]=

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Trị giá thực tế thành Số lượng thành phẩm Giá đơn vị
    phẩm xuất kho xuất kho bình quân
    Trong đó:
    [​IMG]Giá đơn vị bình Trị giá thực tế TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
    quân cả kỳ dự trữ Số lượng thực tế TP tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ

    Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói chung.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]=

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [​IMG] Giá đơn vị bình Trị giá thực tế TP tồn kho đầu kỳ ( hoặc cuối kỳ trước)
    quân cuối kỳ trước Số lượng thực tế TP tồn kho đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
    [​IMG]Phương pháp này mặc dầu khá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến động thành phẩm trong kỳ nhưng không chính xác vì không tính đến sự biến động của giá thành thành phẩm nhập kho.




    Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được nhược điểm của cả hai phương pháp trên: vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhưng nó có nhược điểm là tốn nhiều công sức, tính toán nhiều lần thường chỉ áp dụng ở doanh nghiệp số lần nhập kho trong tháng Ýt, số lượng nhập lớn.
    2.1.2. Giá thực tế nhập trước xuất trước (FIFO).
    Theo phương pháp này doanh nghiệp giả định rằng số thành phẩm nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thành thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của thành phẩm nhập trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế thành phẩm xuất trước và do vậy giá trị thành phẩm tồn kho sẽ là giá thực tế của số thành phẩm nhập vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
    2.1.3. Giá thực tế nhập sau xuất trước (LIFO)
    Phương pháp này giả định những thành phẩm nào nhập kho sau cùng sẽ được xuất trước tiên, ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước ở trên. Giả thuyết nhập sau xuất trước là tính tới thời điểm xuất kho thành phẩm chứ không phải cuối kỳ hạch toán mới xác định. Phương pháp nhập sau xuất trước thích hợp trong trường hợp lạm phát.
    2.1.4. Giá thực tế đích danh:
    Theo phương pháp này thành phẩm nhập kho theo giá nào thì xuất kho theo giá đó và không quan tâm đến thời gian nhập xuất. Phương pháp này thường sử dụng đối với những thành phẩm có giá trị cao và có tính tách biệt.
    2.1.5.Xác định trị giá thành phẩm tồn cuối kỳ để tính trị giá thành phẩm xuất trong kỳ.
    [​IMG]Ở những doanh nghiệp có thành phẩm cồng kềnh, điều kiện cân, đong, đo, đếm, nhập, xuất không chính xác, hạch toán thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ thì cuối mỗi kỳ hạch toán tiến hành kiểm kê để xác định trị giá thực tế thành phẩm tồn kho. Căn cứ vào trị giá thành phẩm tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ và trị giá thành phẩm nhập trong kỳ để xác định trị giá thành phẩm xuất trong kỳ:



    Phương pháp này có ưu điểm là tính toán nhanh chóng, đơn giản nhưng lại không chính xác vì khó phát hiện phần mất mát thiếu hụt.
    2.2. Giá hạch toán:Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp quy định, nó có tính chất ổn định và lâu dài. Giá hạch toán chỉ dùng để ghi sổ kế toán thành phẩm hàng ngày chứ không có tác dụng giao dịch với bên ngoài, có thể lấy giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ và nó quy định cụ thể cho từng loại thành phẩm. Mục đích của việc sử dụng giá hạch toán là nhằm làm đơn giản cho công tác kế toán trong doanh nghiệp có các nghiệp vụ nhập, xuất kho thành phẩm nhiều, thường xuyên, giá thành thực tế biến động lớn.
    Theo phương pháp này thành phẩm nhập kho được ghi theo giá hạch toán và thực tế, thành phẩm xuất kho trong kỳ ghi theo giá hạch toán cuối kỳ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán về giá thực tế thông qua hệ số giá thành phẩm. Hệ số này được tính cho từng loại hoặc từng nhóm TP.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]=

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]x

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Trị giá hạch toán Số lượng thành phẩm Đơn giá
    thành phẩm xuất kho xuất kho hạch toán


    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD=colspan: 2, align: left][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD=colspan: 2, align: left][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]











    Khi dùng phương pháp giá hạch toán việc hạch toán chi tiết thành phẩm trên các chứng từ nhập, xuất, các sổ (thẻ) kế toán chi tiết thành phẩm được ghi theo giá hạch toán, còn việc hạch toán tổng hợp thành phẩm nhất thiết phải ghi theo giá thực tế.
    3. Chứng từ kế toán sử dụng:Việc nhập và xuất kho thành phẩm diễn ra thường xuyên liên tục do vậy mà thành phẩm trong doanh nghiệp luôn luôn biến động. Để quản lý chặt chẽ thành phẩm, các nghiệp vụ nhập, xuất kho thành phẩm phải được lập chứng từ kế toán một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác theo quy định cụ thể trong chế độ ghi chép ban đầu. Bởi vì những chứng từ kế toán này là cơ sở pháp lý để tiến hành hạch toán nhập - xuất kho thành phẩm, là căn cứ để kiểm tra tính chính xác trong quá trình ghi sổ, đảm bảo ghi chép các nội dung cần thiết. Căn cứ vào nội dung các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến thành phẩm để xác định các chứng từ kế toán cần sử dụng ở các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp vận dụng chế độ chứng từ kế toán theo quyết định 1141 -TC- QĐ- CĐKT ngày 1/11/1995 phải sử dụng các chứng từ bắt buộc sau:
    Phiếu nhập kho: Mẫu số 01 -VT
    Phiếu xuất kho: Mẫu số 02-VT
    Thẻ kho: Mẫu số 06- VT
    Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hoá: Mẫu số 08-VT
    Ngoài ra tuỳ từng doanh nghiệp có thể có các nghiệp vụ phát sinh riêng như điều chuyển thành phẩm nội bộ thì sử dụng thêm Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ: Mẫu số 03- VT. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng thêm một số chứng từ có tính hướng dẫn như Biên bản kiểm nghiệm: Mẫu số 05- VT
    4. Hạch toán chi tiết thành phẩm.Hạch toán chi tiết thành phẩm là việc ghi chép kịp thời chính xác tình hình biến động nhập, xuất, tồn cả về hiện vật và giá trị cho từng loại thành phẩm
    Hạch toán chi tiết thành phẩm được thực hiện ở cả kho và ở phòng kế toán, thường là công việc ghi chép tốn nhiều thời gian và công sức. Trong thực tế hiện nay có ba phương pháp hạch toán chi tiết thành phẩm sau:
    4.1.Phương pháp thẻ song song:+ Nguyên tắc:
    -Ở kho: Thủ kho ghi chép sự biến động nhập, xuất, tồn của thành phẩm về hiện vật trên thẻ kho.
    -Ở phòng kế toán: Kế toán thành phẩm ghi chép sự biến động nhập, xuất, tồn của thành phẩm cả về hiện vật và giá trị trên sổ chi tiết thành phẩm.
    + Trình tự ghi sổ (Sơ đồ số 1)
    Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán chi tiết thành phẩmtheo phương pháp thẻ song song.
    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]







    Ghi hàng ngày
    Ghi cuối tháng
    Đối chiếu kiểm tra
    * Ưu, nhược điểm của phương pháp ghi thẻ song song.
    + Ưu điểm:
    - Đơn giản, dễ làm, dễ hiểu, dễ đối chiếu.
    - Cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời cho người quản lý
    - Dễ dàng vận dụng máy vi tính vào việc hạch toán chi tiết thành phẩm.
    + Nhược điểm:
    -Ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán.
    -Không thích hợp với doanh nghiệp có quá nhiều thành phẩm.
    -Không nên ghi chép bằng tay mà ghi bằng máy.
    4.2. Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển:+ Nguyên tắc hạch toán:
    - Ở kho: Thủ kho ghi chép sự biến động Nhập- Xuất- Tồn của thành phẩm về hiện vật trên thẻ kho (giống phương pháp thẻ song song).
    - Ở phòng kế toán: Kế toán thành phẩm ghi chép sự biến động nhập -xuất - tồn cả về hiện vật và giá trị trên sổ đối chiếu luân chuyển. Sổ này sử dụng cho cả năm, mỗi loại thành phẩm ghi một dòng.
    + Trình tự ghi sổ(Sơ đồ số 2).
    Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán chi tiết thành phẩm theophương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển
    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]










    [​IMG][​IMG] Ghi hàng ngày
    Ghi cuối tháng
    [​IMG] Đối chiếu

    * Ưu, nhược điểm của phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển:
    + Ưu điểm:
    -Tránh được việc ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán
    -Cung cấp được thông tin cả về hiện vật và giá trị cho người quản lý.
    + Nhược điểm:
    -Công việc kế toán dồn vào cuối tháng do đó thường lập báo cáo kế toán chậm.
    4.3. Phương pháp sổ số dư.
    + Nguyên tắc hạch toán.
    - Ở kho: Thủ kho chỉ theo dõi biến động Nhập - Xuất - Tồn của thành phẩm về hiện vật. Cuối tháng trên cơ sở số liệu tồn kho của thẻ kho vào Sổ số dư ở cột số lượng.
    - Ở phòng kế toán: Kế toán thành phẩm chỉ theo dõi sự biến động Nhập - Xuất - Tồn về giá trị trên bảng kê luỹ kế Nhập - Xuất - Tồn
    + Trình tự ghi sổ(Sơ đồ số 3).
    Sơ đồ 3:Sơ đồ hạch toán chi tiết thành phẩmtheo phương pháp sổ số dư
    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]









    Ghi hàng ngày
    Ghi cuối tháng
    Đối chiếu

    * Ưu, nhược điểm của phương pháp:
    + Ưu điểm:
    -Tránh được việc ghi trùng lặp giữa kho và phòng kế toán.
    -Cung cấp thông tin tổng giá trị nhập - xuất - tồn theo định kỳ.
    + Nhược điểm:
    - Nếu có nhầm lẫm sai sót thì khó phát hiện, khó kiểm tra do đó chỉ thích hợp ở doanh nghiệp nhân viên kế toán và thủ kho có trình độ và tay nghề thành thạo.
    5. Hạch toán tổng hợp thành phẩm:5.1. Hạch toán tổng hợp thành phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên:Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi tình hình hiện có,biến động tăng, giảm thành phẩm một cách thường xuyên liên tục. Giá trị thành phẩm tồn kho có thể xác định ở bất cứ thời điểm nào.
    v Tài khoản sử dụng:
    - TK 155- Thành phẩm: TK này phản ánh sự biến động nhập - xuất -tồn kho thành phẩm theo giá thực tế.
    Bên nợ: Giá thực tế thành phẩm nhập kho.
    Bên có: Giá thực tế thành phẩm xuất kho.
    Dư nợ: Giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
    Tuỳ theo yêu cầu quản lý TK 155 có thể được mở chi tiết theo từng kho, từng loại thành phẩm. TK này chỉ sử dụng ở những doanh nghiệp thành phẩm có thể nhập kho được.
    - Các tài khoản khác có liên quan như TK 154, TK 157 .
    v Trình tự hạch toán nhập- xuất thành phẩm (Sơ đồ số 4).
    5.2. Hạch toán tổng hợp thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ.Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên liên tục tình hình biến động của các loại thành phẩm mà chỉ phản ánh trị giá tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng thành phẩm tồn kho thực tế từ đó tính ra giá trị thành phẩm xuất trong kỳ.
    v Tài khoản sử dụng:
    - TK 155 Thành phẩm: TK này chỉ phản ánh giá thực tế thành phẩm tồn kho.
    Bên nợ: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
    Bên có: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho đầu kỳ.
    Dư nợ: Giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
    Tài khoản này mở chi tiết cho từng loại thành phẩm.
    - TK 157 Hàng gửi bán: TK này chỉ phản ánh giá thực tế hàng gửi bán tồn cuối kỳ.
    Bên nợ: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn cuối kỳ.
    Bên có: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn đầu kỳ.
    Dư nợ: Giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn cuối kỳ.
    - TK 632 Giá vốn hàng bán: TK này phản ánh giá thực tế thành phẩm nhập - xuất kho trong kỳ.
    Bên nợ: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho và gửi bán tồn đầu kỳ.
    Giá thực tế thành phẩm hoàn thành trong kỳ.
    Bên có: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
    Kết chuyển giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn cuối kỳ.
    Giá thực tế thành phẩm xuất tiêu thụ trong kỳ.
    Tài khoản này cuối kỳ không có số dư.
    v Trình tự hạch toán(Sơ đồ số 5)
    III. nội dung kế toán tiêu thụ thành phẩm.1. Các khái niệm liên quan đến tiêu thụ thành phẩm:Tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT, nội dung của các chỉ tiêu liên quan đến chi phí, doanh thu và kết quả có sự khác nhau. Đối với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ trong chi phí không bao gồm số thuế GTGT đầu vào. Tương tự chỉ tiêu doanh thu bán hàng, chiết khấu, giảm giá, doanh thu hàng bán bị trả lại là giá bán hoặc thu nhập chưa có thuế GTGT(kể cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán- nếu có). Ngược lại đối với các cơ sở tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc đối với các đối tượng không chịu thuế GTGT, trong chi phí bao gồm cả thuế GTGT đầu vào và trong doanh thu bao gồm cả thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt đầu ra (kể cả các khoản phụ thu, phí thu thêm- nếu có). Vì thế các chỉ tiêu về doanh thu bán hàng, chiết khấu, giảm giá, doanh thu hàng bán bị trả lại . đều bao gồm cả thuế GTGT đầu ra.
    Nội dung các chỉ tiêu liên quan đến tiêu thụ thành phẩm được xác định như sau:
    - Doanh thu bán hàng: là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá, sản phẩm, cung cấp lao vụ dịch vụ cho khách hàng. Tổng số doanh thu là số tiền ghi trên hoá đơn bán hàng, trên hợp đồng cung cấp lao vụ, dịch vụ. Doanh thu bán hàng sẽ được ghi tại thời điểm sản phẩm, hàng hoá được xác định là đã tiêu thụ, tức là tại thời điểm chuyển quyền sở hữu về sản phẩm, hàng hoá. Hay nói cách khác thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm người mua trả tiền hay chấp nhận trả tiền về lượng hàng hoá, sản phẩm đã được người bán chuyển giao. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS18) doanh thu bán hàng được công nhận khi:
    + Rủi ro và lợi Ých quan trọng của việc sở hữu hàng hóa được chuyển sang cho người mua.
    + Doanh nghiệp không tiếp tục tham gia quản lý quyền sở hữu cũng không giám sát hiệu quả hàng đã bán ra.
    + Sè doanh thu có thể tính toán một cách chắc chắn.
    + Doanh nghiệp có khả năng là sẽ thu được lợi Ých kinh tế từ giao dịch.
    + Chi phí giao dịch có thể được tính toán một cách chắc chắn.
    - Chiết khấu bán hàng: là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng do đã thanh toán tiền hàng trước thời hạn qui định (chiết khấu thanh toán).
    - Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp lao vụ dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm trong hợp đồng .(do chủ quan của doanh nghiệp). Ngoài ra, tính vào các khoản giảm giá hàng bán còn bao gồm khoản thưởng cho khách hàng do trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng lớn hàng hoá (hồi khấu) và khoản giảm trừ trên giá bán thông thường vì mua khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt (bớt giá)- chiết khấu thương mại.
    - Hàng bán bị trả lại: số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết như không phù hợp yêu cầu, tiêu chuẩn, quy cách kỹ thuật, hàng kém phẩm chất, không đúng chủng loại . Tương ứng với hàng bán bị trả lại là giá vốn của hàng bán bị trả lại, doanh thu của hàng bán bị trả lại và thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng bán bị trả lại (nếu có) và đều được tính theo giá vốn, doanh thu, thuế khi bán.
    - Doanh thu thuần: là khoản doanh thu còn lại của doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu (giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu).
    - Giá vốn hàng bán: là trị giá vốn của sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ. Đối với thành phẩm đó là giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) hay chi phí sản xuất thực tế.
    - Lợi nhuân gộp: là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn hàng bán. Lợi nhuận gộp còn gọi là lãi thương mại hay lợi tức gộp hoặc lãi gộp.
    - Chi phí bán hàng: là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt động tiêu thụ bao gồm chi phí nhân viên bán hàng (lương và các khoản trích theo lương của nhân viên bán hàng) chi phí vận chuyển, bao bì đóng gói, chi phí quảng cáo, bảo hành sản phẩm, chi phí khấu hao nhà cửa máy móc thiết bị và các chi phí bằng tiền khác.
    - Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ các khoản chi phí có liên quan đến quản lý doanh nghiệp, quản lý hành chính và chi phí chung khác phát sinh trong toàn doanh nghiệp gồm lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý, chi phí dụng cụ văn phòng, chi tiếp khách hội nghị, khấu hao nhà cửa máy móc thiết bị, các chi phí dịch vụ mua ngoài liên quan đến quản lý doanh nghiệp và các chi phí bằng tiền khác.
    - Lợi nhuận trước thuế: là chỉ tiêu phản ánh số chênh lệch giữa lợi nhuận gộp với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
    - Lợi nhuận sau thuế: là chỉ tiêu phản ánh số chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
    Có thể khái quát mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động tiêu thụ qua sơ đồ sau: (Sơ đồ số 6).
    2. Các phương thức tiêu thụ. Muốn tiêu thụ được sản phẩm của mình trong cơ chế thị trường hiện nay doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã mặt hàng đồng thời phải đẩy mạnh chiến lược marketing của mình. Bên cạnh đó việc lựa chọn và áp dụng linh hoạt các phương thức bán hàng cũng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất thường sử dụng các phương thức tiêu thụ sau:
    v Phương thức tiêu thụ trực tiếp:
    Là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho (hay trực tiếp tại các phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Số hàng khi bàn giao
    Sơ đồ 6: mối quan hệ giữa doanh thu-chi phí[TABLE]
    [TR]
    [TD=colspan: 5]Doanh thu bán hàng
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD=colspan: 2]- Giảm giá, bớt giá, hồi khấu, doanh thu hàng bán bị trả lại
    - Thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
    [/TD]
    [TD=colspan: 3]Doanh thu thuần
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]
    [/TD]
    [TD]Giá vốn hàng bán
    [/TD]
    [TD=colspan: 3]Lợi nhuận gộp
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD=colspan: 2]
    [/TD]
    [TD]CF bán hàng và
    CF quản lý DN
    [/TD]
    [TD=colspan: 2]Lợi nhuận trước thuế
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD=colspan: 3]
    [/TD]
    [TD]Thuế thu nhập DN
    [/TD]
    [TD]Lợi nhuận sau thuế
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    cho khách hàng được chính thức coi là tiêu thụ và người bán mất quyền sở hữu về số hàng này. Người mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán số hàng mà người bán đã giao.
    v Phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận:
    Là phương thức mà bên bán chuyển hàng cho bên mua theo địa điểm ghi trong hợp đồng. Số hàng chuyển đi này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Khi được bên mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán về số hàng chuyển giao (một phần hay toàn bộ) thì số hàng được bên mua chấp nhận này mới được coi là tiêu thụ và bên bán mất quyền sở hữu về số hàng đó.
    v Phương thức bán hàng đại lý(ký gửi):
    Bán hàng đại lý(ký gửi) là phương thức mà bên chủ hàng(gọi là bên giao đại lý) xuất hàng giao cho bên nhận đại lý để bán. Bên nhận đại lý sẽ được hưởng thù lao đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
    Theo luật thuế GTGT nếu bên nhận đại lý bán hàng theo đúng giá do bên giao đại lý quy định và phần hoa hồng được hưởng tính theo tỷ lệ thoả thuận trên phần doanh thu chưa có thuế GTGT thì toàn bộ thuế GTGT do chủ hàng chịu, bên nhận đại lý không phải nộp thuế GTGT trên phần hoa hồng được hưởng. Ngược lại nếu bên nhận đại lý hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ thoả thuận trên tổng giá thanh toán (gồm cả GTGT) hoặc bên nhận đại lý hưởng khoản chênh lệch giá thì bên nhận đại lý sẽ phải chịu thuế GTGT tính trên phần GTGT này, bên giao đại lý chỉ chịu thuế GTGT trong phạm vi doanh thu của mình.
    v Phương thức bán hàng trả góp:
    Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Người mua sẽ thanh toán lần đầu tại thời điểm mua. Số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thông thường số tiền trả ở các kỳ tiếp theo bằng nhau, trong đó bao gồm một phần doanh thu gốc và một phần lãi trả chậm.
    Theo phương thức này, về hạch toán, khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển giao được coi là tiêu thụ. Về thực chất chỉ khi nào người mua thanh toán hết tiền hàng thì doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu.
    v Phương thức hàng đổi hàng:
    Để thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời giải quyết lượng hàng tồn kho, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện việc trao đổi sản phẩm hàng hoá của mình để nhận các loại vật tư, hàng hoá khác. Sản phẩm khi bàn giao cho khách hàng được coi là chính thức tiêu thụ và đơn vị xác định doanh thu.
    Ngoài các phương thức tiêu thụ chủ yếu như trên trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm, hàng hoá để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên, để viện trợ, biếu tặng, tổ chức hội nghị khách hàng đều được coi là tiêu thụ.
    Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, để đưa sản phẩm, hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng một cách nhanh nhất với chi phí thấp nhất thì quá trình tiêu thụ chia làm hai giai đoạn:
    + Bán buôn: Là quá trình bán hàng cho các doanh nghiệp thương mại, các doanh nghiệp sản xuất và các tổ chức kinh tế khác mà kết thúc của quá trình này sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông chưa đi vào tiêu dùng, giá trị sử dụng của sản phẩm, hàng hoá vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn. Đặc điểm của bán buôn là sản phẩm, hàng hoá được bán với khối lượng lớn và thường tiến hành theo các hợp đồng kinh tế đã ký kết.
    + Bán lẻ: Là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng và sản phẩm, hàng hoá sẽ không tham gia vào khâu lưu thông, thực hiện hoàn toàn giá trị và giá trị sử dụng của nó.
    Cách phân chia này giúp doanh nghiệp cũng như nhà nước có thể thay đổi được tỷ lệ tương quan giữa bán buôn, bán lẻ sản phẩm, hàng hoá, có biện
    pháp điều chỉnh phù hợp theo hướng tăng cường bán lẻ, giảm tối đa việc luân chuyển sản phẩm, hàng hoá qua nhiều khâu trung gian.
    Như vậy, có nhiều phương thức tiêu thụ khác nhau, việc doanh nghiệp vận dụng phương thức tiêu thụ nào còn tuỳ thuộc vào từng loại hình sản phẩm, quy mô và khả năng của doanh nghiệp cũng như điều kiện thị trường sao cho với chi phí là thấp nhất đạt được hiệu quả cao nhất
    3. Chứng từ kế toán sử dụng:Để phản ánh nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm, kế toán sử dụng các chứng từ sau:
    - Hoá đơn GTGT: sử dụng cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ khi tính thuế GTGT. Hoá đơn này gồm 3 chỉ tiêu:
    + Giá bán chưa tính thuế GTGT.
    + Thuế GTGT.
    + Tổng giá thanh toán.
    - Hoá đơn bán hàng: sử dụng cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp trực tiếp khi tính thuế GTGT hoặc những mặt hàng không chịu thuế GTGT. Hoá đơn này chỉ ghi tổng giá thanh toán (trong đó đã có thuế GTGT).
    - Ngoài ra doanh nghiệp còn sử dụng các chứng từ gốc phản ánh tình hình thanh toán: phiếu thu, phiếu chi, biên bản giao nhận hàng
    4. Phương pháp hạch toán4.1.Tài khoản sử dụng: + TK 511-Doanh thu bán hàng: TK này dùng để phản ánh tổng số doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp trong một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản giảm trừ doanh thu.Từ đó, tính ra doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ .Tổng số doanh thu bán hàng ghi nhận ở đây có thể là tổng giá thanh toán(với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cũng như các đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt) hoặc giá không có thuế GTGT(với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ).
    TK này cũng dùng để phản ánh các khoản nhận được từ nhà nước về trợ cấp, trợ giá khi thực hiện nhiệm vụ cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của nhà nước.
    v Nguyên tắc hạch toán TK 511:
    Chỉ phản ánh vào TK 511 sè doanh thu của khối lượng sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã được xác định là tiêu thụ.
    Những doanh nghiệp nhận gia công vật tư , hàng hoá thì chỉ phản ánh vào TK 511 số tiền gia công thực tế được hưởng.
    -Kết cấu và nội dung phản ánh TK 511:
    Bên nợ: Số thuế phải nộp (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu) tính trên doanh số bán trong kỳ.
    Số giảm giá hàng bán và doanh thu của hàng bán bị trả lại kết chuyển trừ vào doanh thu.
    Kết chuyển số doanh thu thuần về tiêu thụ vào TK xác định kết quả kinh doanh.
    Bên có: Tổng số doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp lao vụ, dịch vụ của doanh nghiệp thực tế phát sinh trong kỳ kế toán.
    TK này cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 4 TK :
    -TK 5111-Doanh thu bán hàng hoá.
    -TK 5112- Doanh thu bán thành phẩm.
    -TK 5113- Doanh thu cung cấp dịch vụ.
    -TK 5114- Doanh thu trợ cấp trợ giá.
    + TK 512- Doanh thu bán hàng nội bộ: TK này phản ánh doanh thu của số hàng hoá, sản phẩm, lao vụ ,dịch vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tập đoàn, liên hiệp xí nghiệp . hạch toán toàn ngành. Ngoài ra TK này còn sử dụng để theo dõi các khoản được coi là tiêu thụ nội bộ khác như sử dụng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh hay trả lương, thưởng cho công nhân viên chức.
    TK 512 có kết cấu giống như TK 511 và được chi tiết thành 3 TK:
    -TK 5121- Doanh thu bán hàng hoá.
    -TK 5122- Doanh thu bán thành phẩm.
    -TK 5123- Doanh thu cung cấp dịch vụ.
    + TK 531- Hàng bán bị trả lại: TK này dùng để theo dõi doanh thu của số thành phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại. Đây là TK điều chỉnh của TK 511 để tính doanh thu thuần nên nó có kết cấu ngược với kết cấu TK 511.TK này cuối kỳ không có số dư .
    + TK 532- Giảm giá hàng bán: TK này phản ánh toàn bộ các khoản giảm giá hàng bán cho khách hàng trên giá bán đã thoả thuận. Được hạch toán vào TK này bao gồm các khoản bớt giá, hồi khấu và giảm giá đặc biệt do nguyên nhân thuộc vể người bán. Đây là TK điều chỉnh của TK 511 nên nó có kết cấu ngược với kết cấu TK 511.TK này cuối kỳ không có số dư.
    + TK 3331- Thuế GTGT phải nộp : TK này phản ánh số thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT của hàng bán bị trả lại, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, số thuế GTGT được miễn giảm.
    Bên nợ: Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
    Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại.
    Số thuế GTGT được miễn giảm.
    Số thuế GTGT đã nộp.
    Bên có: Số thuế GTGT đầu ra.
    Dư có: Số thuế GTGT phải nộp.
    TK này được chi tiết thành 2 TK :
    -TK 33311- Thuế GTGT đầu ra.
    -TK 33312- Thuế GTGT của hàng nhập khẩu.
    Ngoài các TK nói trên trong quá trình hạch toán còn sử dụng các TK có liên quan khác như TK 111, TK 112, TK 152, TK 153, TK 131, TK 811.
    4.2 Phương pháp hạch toán tiêu thụ thành phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên.4.2.1. Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
    v Phương thức tiêu thụ trực tiếp ( sơ đồ 7)
    v Phương thức bán hàng chờ chấp nhận(Sơ đồ 7).
    Việc hạch toán doanh thu tiêu thụ và các khoản giảm trừ doanh thu giống như phương thức tiêu thụ trực tiếp chỉ khác phần hạch toán giá vốn hàng bán.
    v Phương thức bán hàng qua đại lý, ký gửi:
    +Tại đơn vị giao đại lý, ký gửi (sơ đồ 8)
    Số hàng ký gửi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp cho đến khi chính thức tiêu thụ. Về cơ bản, các bút toán phản ánh doanh thu,giá vốn, chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại giống như tiêu thụ theo phương thức chuyển hàng chỉ khác phần hoa hồng trả cho đơn vị.
    Sơ đồ 8: Hạch toán tiêu thụ tại đơn vị giao đại lý, ký gửi
    [​IMG]TK 154,155 TK 157 TK 632 TK 911 TK 3331 TK 111,112,131
    (2d)
    (2a)

    (1) (3) (5) TK 511 TK 641
    (2b)
    (4) (2c)


    (1): Xuất hàng chuyển giao cho cơ sở nhận làm đại lý (ký gửi).
    (2a): Tổng giá thanh toán trừ đi hoa hồng cho bên nhận đại lý.
    (2b): Doanh thu tiêu thụ của hàng đã bán.
    (2c): Thuế GTGT đầu ra của hàng đã bán.
    (2d): Hoa hồng đại lý.
    (3):Trị giá vốn hàng đại lý, ký gửi đã bán được.
    (4): Kết chuyển doanh thu thuần vào TK xác định kết quả.
    (5): Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ. Sơ đồ 8: Hạch toán tiêu thụ tại đơn vị giao đại lý, ký gửi

    +Tại đơn vị nhận đại lý, ký gửi(Sơ đồ 9)
    v Phương thức bán hàng trả góp(sơ đồ 10):
    v Phương thức hàng đổi hàng(sơ đồ 11).
    v Tiêu thụ thành phẩm theo phương thức xuất giao bán nội bộ cho các đơn vị .
    +Tại đơn vị giao sản phẩm (sơ đồ 12)
    Nếu kế toán lập ngay hoá đơn GTGT và đơn vị nhận hàng thanh toán ngay hoặc chấp nhận thanh toán, hàng sẽ được coi là tiêu thụ và kế toán tiến hành ghi nhận doanh thu nội bộ và phản ánh giá vốn. Còn nếu đơn vị nhận hàng chưa chấp nhận thanh toán kế toan chưa được ghi doanh thu mà phải theo dõi qua TK 157. Khi đơn vị nhận hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán mới xác định doanh thu và ghi giá vốn hàng bán. Các bút toán còn lại( chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại .) giống như tiêu thụ bên ngoài.
    +Tại đơn vị nhận sản phẩm để tiếp tục bán (Sơ đồ 13)Sơ đồ 13: Hạch toán tiêu thụ theo phương thứcgiao bán nội bộ tại đơn vị nhận sản phẩm[​IMG]















    v Một số trường hợp tiêu thụ khác (sơ đồ 14 và 15)
    4.2 .2. Đối với DN tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc đối với những mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế xuất khẩu (sơ đồ 16)
    Sơ đồ 16: Hạch toán tiêu thụ ở các doanh nghiệptính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp[​IMG]TK 154,155 TK 632 TK 911 TK 511,512 TK 111,112,131
    (2a)
    (1)
    TK 157 (11)
    (10)
    (2b) (2c)

    (4b)
    TK 111,112,131 TK 532

    (3) (7)

    TK 531

    (4a) (8)

    TK 3332,3333

    (9) (5)

    TK 811 TK 911
    (6) (12)
    TK 33311 TK 6425
    (13)

    (1): Doanh thu tiêu thụ(tổng giá thanh toán).
    (2a): Giá vốn hàng tiêu thụ trực tiếp.
    (2b): Xuất hàng chờ chấp nhận, gửi bán, ký gửi.
    (2c): Giá vốn của hàng chờ chấp nhận, gửi bán, ký gửi đã tiêu thụ.
    (3): Giảm giá cho khách hàng.
    (4a): Doanh thu hàng bán bị trả lại.
    (4b): Giá vốn của hàng bán bị trả lại.
    (5): Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu phải nộp.
    (6): Chiết khấu dành cho khách hàng.
    (7): Kết chuyển giảm giá trừ vào doanh thu bán hàng.
    (8): Kết chuyển doanh thu hàng bán bị trả lại trừ vào doanh thu bán hàng.
    (9): Nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu.
    (10): Kết chuyển doanh thu thuần vào TK xác định kết quả.
    (11): Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
    (12): Kết chuyển chiết khấu bán hàng trừ vào kết quả trong kỳ.
    (13): Số thuế GTGT phải nộ
    4.3. Phương pháp hạch toán tiêu thụ thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
    Đối với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, hạch toán các nghiệp vụ về tiêu thụ chỉ khác với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên trong việc xác định giá vốn thành phẩm, lao vụ, dịch vụ (sơ đồ 5), còn việc phản ánh doanh thu và các khoản liên quan đến doanh thu(chiết khấu bán hàng, doanh thu hàng bán bị trả lại, thuế GTGT .) hoàn toàn giống nhau.
    Việc hạch toán giá vốn thành phẩm tiêu thụ theo phương pháp này chỉ được thực hiện vào cuối tháng theo công thức:

    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]TrÞ gi¸ thµnh phÈm xuÊt kho


    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [TD][/TD]
    [TD=align: left][​IMG][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD][TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]TrÞ gi¸ thµnh phÈm tån cuèi kú

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     
Đang tải...