Luận Văn Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam

    1. Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế:
    1.1. Quan điểm:
    Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của thời đại, đại hội VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN; thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
    Trong nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
    -Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
    -Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng .
    -Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
    1.2. Bộ Chính Trịnh: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005.”
    2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
    Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những chính sách nhằmm thúc đẩy tiến trình hội nhập.
    -Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên .Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật .
    -Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư .để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp .tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
    3. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
    3.1. Con đường hội nhập:
    Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “ quá nóng “ về mức độ %, thời hạn mở của thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế.
    Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ.
    Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.
    Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng tháng 7/1995 công nghệ đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEAM). Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được kí kết. Trước đó từ cuối năm 1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ chức này.
    3.1.1. Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam á:
    3.1.1.1.Quá trình gia nhập:
    Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
    Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia thực hiện AFTA bằng việc kí nghị định thư tham gia hiệp định CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
    Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày1/1/1996 và sẽ kết thúc vào ngày 1/1/2006.
    Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh mục hàng hoá theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm cao.
    Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi buôn bán gì với ASEAN.
    3.1.1.2. Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập ASEAN/AFTA/CEPT:
    Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy móc .Cơ chế KHH tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu thì chỉ là những chỉ tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng trong nước mà không có những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ. Tuy nhiên cũng có một số ngành sản xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu.
    Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phương án thích hợp nhất để thực hiện AFTA/CEPT cần được lựa chọn đối với Việt Nam là Việt Nam sẽ thực hiện AFTA trong khuôn khổ các quy định của CEPT, đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu phù hợp với các lợi thế tương đối của Việt Nam trong tương quan so sánh với các nước ASEAN; tập trung phát triển nhanh những ngành có lợi thế ss. Tuy nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn hoặc theo những mức độ khác nhau cho phần lớn các ngành của nền kinh tế quốc dân, để có thể đạt được một trình độ phát triển nhất định trước khi mở cửa thị trường trong nước theo CEPT, chỉ hạn chế sản xuất với một số ít các ngành mà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh.
    Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước ASEAN sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn đề có những thách thức riêng của nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn. Khi đó nếu hàng hoá của ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta rất dễ mất đi thị trường trong nước. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, mặc dù ta là nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Khi được hưởng thuế quan ưu đãi, kể cả sau khi đã nộp thuế nhập khẩu, nếu giá thành bán lẻ của gạo Thái Lan vẫn thấp hơn giá thành bán lẻ của ta (mà gạo Thái Lan phải ngon hơn gạo ta), thì người tiêu dùng với mức sống ngày càng tăng như hiện nay chọn mua gạo Thái Lan để ăn. Và gạo của ta lúc đó chỉ còn là thị phần của những người có thu nhập thấp hoặc để xuất khẩu.
    3.1.2. Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương:
    Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện gồm có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hoá thương mại đầu tư hợp tác kinh tế kĩ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện cônh khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị tuy được quan tâm nhưng thường được bàn một cách không chính thức.



     
Đang tải...