Luận Văn Thực trạng hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á tại Phòng G

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU

    1.Lý do thực hiện đề tài
    Từ cuối năm 2010 đặc biệt là quý 1 năm 2011, lạm phát cao trở thành vấn đề đáng lo ngại của nền kinh tế, ngày 24/02/2011 Thủ Tướng Chính Phủ đã kí nghị quyết về những giải pháp chủ yếu kềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, trong đó nêu rõ phải tập trung thúc đẩy sản xuất.
    Theo đó Ngân hàng nhà nước cũng đã có chỉ thị 01/CT – NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng phải xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2011 phù hợp với mục tiêu tốc độ tăng tín dụng dưới 20%, đồng thời thực hiện giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với năm 2010, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán; đến 30 tháng 6 năm 2011, tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa là 22% và đến 31 tháng 12 năm 2011, tỷ trọng này tối đa là 16%. Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng chuyên phục vụ cho đối tượng khách hàng là cá nhân. Các sản phẩm dịch vụ được cung cấp phổ biến bao gồm tiết kiệm, kiểm tra tài khoản, cho vay cá nhân, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng và rất nhiều dịch vụ khác. Một trong những sản phẩm chiếm tỉ trọng cao trong hoạt động của ngân hàng bán lẻ, đó là cho vay sản xuất kinh doanh.
    Nhận thấy tầm quan trọng của lĩnh vực cho vay sản xuất kinh doanh trong hoạt động ngân hàng hiện nay, đồng thời được thực tập tại bộ phận tín dụng ở phòng giao dịch Cộng Hoà của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á người viết đã chọn đề tài “Thực trạng hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á tại Phòng Giao Dịch Cộng Hòa” là đề tài báo cáo thực tập của mình. Do thời gian và số liệu hạn chế nên đề tài chỉ tập trung phân tích hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á - Phòng Giao Dịch Cộng Hòa trong các năm 2009 và 2010 và 2011. Đề tàiThực trạng hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á tại Phòng Giao Dịch Cộng Hòa được tôi lựa chọn nhằm mục tiêu nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh của Ngân Hàng TMCP Việt Á tại PGD Cộng Hòa, từ đó đưa ra các kiến nghị và đề xuất để phát triển hoạt động này.
    2.Mục tiêu thực hiện đề tài
    Chuyên đề tốt nghiệp hướng vào 3 mục tiêu sau:
    - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh dành cho của các NHTM.
    - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động động cho vay sản xuất kinh doanh dành cho khách hàng của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á tại PGD Cộng Hòa.
    - Đề xuất giải pháp phát triển hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á tại PGD Cộng Hòa.
    Căn cứ vào ba mục tiêu trên, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài báo cáo thực tập tốt nghiệp tập trung vào hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh ở Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Á tại PGD Cộng Hòa.
    3. Đối tượng, phạm vi, nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh tại Ngân hang TMCP Việt Á.
    - Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh tại Ngân hang TMCP Việt Á- PGD Cộng Hòa năm 2009 đến 2011.
    4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
    - Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp thu thập thông tin và phương pháp phân tích. Thông tin thu thập được thông qua nhiều kênh như quá trình thực tập trực tiếp tại Phòng Giao Dịch, phỏng vấn các cán bộ công nhân viên của ngân hàng, các báo cáo tài chính năm, báo cáo tín dụng Phương pháp phân tích sử dụng các thông tin này, kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp thông tin, từ đó đưa ra những nhận định về tình hình cho vay.
    - Nguồn số liệu: chủ yếu là từ các Báo cáo định kì của VAB – PGD Cộng Hòa.

    5. Bố cục đề tài
    Ngoài Lời cảm ơn, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Bố cục của đề tài được chia thành ba chương:
    Chương 1: Tín dụng ngân hàng và những qui định về hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh.
    Chương 2: Thực trạng về hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Việt Á- PGD Cộng Hòa và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động.















    CHƯƠNG 1: TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY SẢN XUẤT KINH DOANH

    1.1 Khái niệm và hoạt động cho vay của NHTM1.1.1.Khái niệm “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.[1] Khi tìm hiểu bảng tổng kết tài sản của các NHTM, chúng ta thấy rằng cho vay luôn là khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng và là khoản mục đem lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay.
    Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối với ngân hàng. So sánh với các tài sản khác khoản mục cho vay có tính lỏng kém[2] hơn vì thông thường chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó đến hạn thanh toán. Khi một khoản vay được NHTM cấp cho người vay thì người vay mới là bên chủ động: có thể trả ngân hàng tiền vay trước hạn, đúng hạn thậm chí có thể xin gia hạn thêm thời gian trả nợ. Còn các NHTM chỉ được phép quản lý các khoản vay đó tuân theo hợp đồng đã ký, ngân hàng phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký trừ khi có những sai phạm của khách hàng khi thực hiện hợp đồng.
    Theo mục 2- Điều 3- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về qui chế cho vay của Tổ chức tín dụng với khách hàng, ta có định nghĩa: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
    Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo nguồn thu cho của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng có xu hướng tập trung vào các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Chính vì thế mà thanh tra ngân hàng thường xuyên kiểm tra các danh mục cho vay của các ngân hàng.
    Mọi người đều mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua việc cung cấp các khoản vay, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng cho vay là chức năng hàng đầu của các NHTM để tài trợ cho chi tiêu của doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ.
    Thông qua hoạt động cho vay, NHTM đã giúp cho quá trình sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp được liên tục và ổn định, góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế. Không chỉ có thế hoạt động cho vay còn nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư và cả cộng đồng. Chính vì thế mà hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
    1.1.2.Phân loại các khoản cho vay
    1.1.2.1.Dựa vào mục đích

    Cho vay bất động sản: là cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai; bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
    Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
    Cho vay nông nghiệp: là cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, .
    Cho vay các định chế tài chính: gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
    Cho vay cá nhân: là cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm vật dụng cùng với các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
    Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại là cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị.
    1.1.2.2. Dựa vào thời hạn cho vay

    Cho vay ngắn hạn: thời hạn đến 12 tháng, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
    Cho vay trung hạn: thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh (SXKD), xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, nó còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
    Cho vay dài hạn: có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm, có khi đến 40 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
    1.1.2.3.Dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng

    Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
    Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Nếu khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo, sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai.
    1.1.2.4.Dựa vào phương pháp hoàn trả

    Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng.
    Cho vay không có thời hạn: là loại cho vay mà ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể thỏa thuận trong hợp đồng.
    1.1.2.5.Dựa vào xuất xứ tín dụng

    Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
    Cho vay gián tiếp: là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán (ví dụ: chiết khấu thương mại, nghiệp vụ thanh tín).
    1.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHTM
    1.2.1.Chỉ tiêu định tính
    Chỉ tiêu định tính đầu tiên và quan trọng nhất là uy tín của Ngân hàng. Một ngân hàng có uy tín sẽ có khả năng thu hút nhiều khách hàng. Đồng thời, nếu một ngân hàng có số lượng khách hàng đông đảo và là những khách hàng có uy tín thì đó là một dấu hiệu cho thấy hiệu quả tín dụng của ngân hàng là khả quan. Ngoài ra, ngân hàng phải thực sự trở thành bạn của khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với khách hàng. Ngân hàng cũng có thể là người cung cấp các thông tin bổ ích về thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ cho khách hàng.
    Thứ hai là sự nỗ lực của khách hàng vay vốn:
    – Bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, tức là hoạt động tín dụng phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải các chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro.
    – Khách hàng phải tuân thủ đúng các nguyên tắc vay vốn. Mục đích sử dụng vốn vay đã kí kết trong hợp đồng tín dụng (HĐTD) đã được cả hai bên phân tích và đánh giá kĩ lưỡng cả về hiệu quả, tính khả thi cũng như mức độ phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội chung của ngành, địa phương và của cả nước. Ngoài ra, sự năng động, nhạy bén trong kinh doanh của khách hàng và sự giúp đỡ hiệu quả của ngân hàng sẽ tạo điều kiện để khách hàng đạt lợi nhuận cao nhất và đó chính là điều kiện để khách hàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
    Và tiêu chí cuối cùng là sự ổn định của nền tài chính quốc gia. Sự ổn định của nền tài chính – tiền tệ quốc gia giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ cho doanh nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư.
    Tóm lại: Có thể nói hiệu quả Tín dụng ngân hàng là một chỉ tiêu rất tổng hợp được nhìn nhận từ ba góc độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Các chỉ tiêu trên chỉ là những căn cứ để đánh giá hiệu quả Tín dụng ngân hàng một các khái quát. Để có thể kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể.
    1.2.2.Chỉ tiêu định lượng.

    Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận:
    Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/Tổng dư nợ tín dụng: phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng, cho biết một đồng dư nợ cho vay mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỉ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại càng lớn.
    Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/Tổng dư nợ ngân hàng: đánh giá tầm quan trọng của hoạt động Tín dụng ngân hàng trong mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Tỉ lệ này cao chứng tỏ hầu hết lợi nhuận của ngân hàng có được là từ hoạt động cho vay.
    Chỉ tiêu về Dư nợ cho vay (Dư nợ cho vay/Tổng tài sản): Chỉ tiêu này cho biết tương quan so sánh về quy mô cho vay so với tổng tài sản của ngân hàng. Tỉ lệ này cao chứng tỏ các khoản cho vay chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng.
    Chỉ tiêu về Thu nợ (Doanh số thu nợ/Tổng dư nợ bình quân): Chỉ tiêu này đo lường tốc độ tăng trưởng của doanh số thu nợ qua các thời kì. Tốc độ tăng doanh số thu nợ cao chứng tỏ công tác thu nợ của ngân hàng đang được tiến hành tốt. Ngược lại nếu tốc độ này thấp thì có thể do doanh số cho vay giảm sút hoặc công tác thu nợ gặp khó khăn.
    Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng nợ quá hạn:
    Nợ quá hạn là những khoản nợ đến kì trả nợ hoặc hết thời hạn vay vốn với thời gian được gia hạn thêm (nếu có) nhưng khách hàng vẫn chưa trả được.

    Tỉ lệ Nợ quá hạn/Tổng dư nợ: Dư nợ quá hạn được xác định theo phân loại nợ do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, ngoại trừ các khoản nợ khoanh theo quyết định của Chính phủ và nợ tồn đọng cũ được xử lí theo Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 6/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Tỉ lệ nợ quá hạn càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao. Nếu tỉ lệ này của ngân hàng nhỏ hơn 5% thì rất tốt. Ngược lại, tỉ lệ này quá lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh vì nguy cơ mất vốn cao, làm mất khả năng thanh toán và thu nhập.
    Tỉ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ: Theo quyết định 493/225/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam, tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỉ lệ đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5 tại điều 6 và 7 theo quy định này.[3]

    1.3.Những qui định về hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh tại Ngân Hàng TMCP Việt Á
    Quy chế cho vay của Ngân hàng TMCP Việt Á là Quyết định 159/QĐ/HĐQT ngày 12/11/2008 được ban hành dựa trên những nội dung chủ yếu từ Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam.
    1.3.1.Những nguyên tắc cơ bản

    Nguyên tắc cho vay: Khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐTD.
    Đối tượng cho vay:
    Các pháp nhân: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 94 Bộ Luật dân sự phải có năng lực pháp luật dân sự,
    Cá nhân là người Việt Nam: hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình, tổ hợp tác,
    Doanh nghiệp tư nhân,
    Công ty hợp danh,
    Pháp nhân là người nước ngoài: KH vay vốn phải có địa chỉ trụ sở chính và cá nhân phải có địa chỉ cư trú rõ ràng.
    Điều kiện cho vay:
    Khách hàng là tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự. Tổ chức nước ngoài thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự được xác định theo pháp luật Việt Nam,
    Khách hàng là cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Cá nhân nước ngoài khi thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự được xác định theo pháp luật Việt Nam,
    Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp,
    Có khả năng tài chính bảo đảm hoàn trả nợ vay trong thời hạn cam kết; có dự án đầu tư, phương án SXKD, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật,
    Có trụ sở (đối với tổ chức) hoặc có hộ khẩu thường trú, tạm trú có thời hạn KT3 (đối với cá nhân) tại địa bàn cho vay được phân công của Hội sở hay các đơn vị trực thuộc ngân hàng hoạt động. Các trường hợp cho vay ngoài địa bàn cho vay phải được Giám đốc chấp thuận,
    Có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của ngân hàng trừ trường hợp cho vay không có tài sản bảo đảm được Ban Giám đốc chấp thuận,
    Trong một số trường hợp cụ thể, khách hàng phải có thêm các điều kiện sau:

    Đối với tổ chức khi vay vốn bảo đảm tiền vay bằng tài sản của tổ chức hoặc được bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba thì phải được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban quản trị hoặc chủ sở hữu hoặc cấp chủ quản của tổ chức vay vốn thông qua biên bản họp Hội đồng thành viên và của bên bảo lãnh chấp thuận theo điều lệ hoạt động (đối với tổ chức có điều lệ).
    [HR][/HR][1] Mục 2- Điều 3- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về Qui Chế Cho Vay của Tổ chức tín dụng với khách hàng.

    [2] Các cách gọi thay thế cho tính thanh khoản. Tính thanh khoản, một khái niệm trong tài chính, chỉ mức độ mà một tài sản bất kỳ có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của tài sản đó. Ví dụ, chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu . có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu.

    [3] http://www.scribd.com/doc/67016271/44/Phan-tich-mot-so-chi-tieu-phan-anh-hieu-qua-hoa-dong-tin-dung
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...