Luận Văn Thực trạng & Giải pháp thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng Ngân Hàng NT & PTNT Láng Hạ

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Thực trạng & Giải pháp thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng Ngân Hàng NT &PTNT Láng Hạ


    MỤC LỤC​

    CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, ĐẦU TƯ TÍN DỤNG VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ.



    1. khái niệm và bản chất của đầu tư


    1.1 Khái niệm


    Trong quá trình sản xuất kinh doanh bất cứ một doanh nghiệp , một tổ chức hay một cá nhân nào đó muốn hoạt động được thì cần phải hội tụ đủ ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất đó là tư liệu sản xuất, vốn và sức lao động, đây là ba yếu tố cơ bản cần thiết ban đầu để tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy khi mộtdoanh nghiệp sản xuất dự kiến sẽ đi vào hoạt động thì doanh nghiệp đó cần phải có vốn, có địa điểm sản xuất, có nhà xưởng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất, có công nhân làm việc mới có thể đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục đích cụ thể mà doanh nghiệp đã đề ra. Hoặc khi một doanh nghiệp thương mại hoạt động đòi hỏi doanh nghiệp đó cần phải có địa điểm bán hàng, phương tiện bán hàng, có vốn lưu động ban đầu để mua hàng hoávà thuê nhân viên bán hàng . Quá trình sử dụng các nguồn lực trên đây được coi là quá trìnhđầu tư .

    Đầu tư là một phạm trù kinh tế và đã có nhiều cách hiểu về nó nhưng xét theo nghĩa chung nhất thì có thể định nghĩa hoạt động đầu tư như sau:” Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư những kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó”.

    Những kết quả ở đây có thể là sự tăng lên của tài sản tài chính ( tiền vốn ), tài sản vật chất ( nhà xưởng, của cải vật chất khác ), tài sản tí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn) nguồn nhân lực có đủ khả năng làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội, như vậy chỉ có đầu tư mới đem lại sự phát triển cho xã hội.


    1.2 Bản chất của đầu tư


    Trong nền kinh tế quốc dân có ba lĩnh vực đầu tư : đầu tư tài chính , đầu tư thương mại, đầu tư phát triển

    -Đầu tư tài chính là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

    - Đầu tư thương mại là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giákhi mua và khi bán

    Cả đầu tư tài chính và đầu tư thương mại nếu không xét đến yếu tố quan hệ quốc tế thì không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của chủ đầu tư .

    - Đầu tư tài sản vật chất hay đầu tư phát triển là đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động để tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi thành viên cho xã hội đồng thời nó là động lực của sự tăng trưởng và phát triển.


    2. Vai trò của đầu tư đối với sự phát triển kinh tế xã hội


    Từ khái niệm và bản chất của đầu tư cho thấy đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế là chìa khoá của sự tăng trưởng. Đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh doanh nói riêng, điều đó được thể hiện trong vai trò của đầu tư. Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế vai trò của đầu tư được thể hiện như sau:


    2.1 Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế


    a.Về mặt tổng cầu


    Tác động của đầu tư được thể hiện thông qua công thức tính tổng cầu:

    AD = I + G +C +( X- M )

    Trong đó AD là tổng cầu, I: đầu tư , G: chi tiêu của chính phủ, C: tiêu dùng của dân cư, X: giá trị xuất khẩu, M: giá trị nhập khẩu

    Như vậy đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cầu và là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế, đầu tư thường chiếm khoảng 24%-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng sẽ dẫn tới sự tăng lên của giá cả.


    b.Về mặt tổng cung:


    Khi thành quả của đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng, các năng lực mới bắt đầu đi vào hoạt động thì tổng cung sẽ tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng và điều đó sẽ tiếp tục kích thích sản xuất hơn lữa.Sản xuất phát triển chính là nguồn gốc cơ bản của sự phát triển kinh tế.


    2.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sư ổn định kinh tế.


    Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định nền kinh tếcủa mọi quốc gia.

    Khi tăng đầu tư cầu các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá cả hàng hoá có liên quan tăng đến một mức độ nào đó sẽ dẫn dến tình trạng lạm phát. Khi đó sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn thâm hụt ngân sách lớn kinh tế sẽ phát triển chậm lại.Mặt khác, khi tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng sản xuất của các nghành này phát triển, thu hút thêm lao động nâng cao đời sống của người dân,giảm tệ nạn xã hội sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.


    2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.


    Vai trò này được thể hiện qua công thức tính ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế.

    ICOR= trong đó :khối lượng vốn gia tăng

    :mức tăng tổng sản lượng quốc gia

    Để đánh giá tốc độ gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia ( Y ), các nhà kinh tế thường bắt đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm đầu ra thuần tuý được tạo ra từ đầu tư thuần. Theo Harrod-Domar tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ số vốn đầu tư sản lượng và năng suất cuả vốn đầu tư:

    g====

    Trong đó g : tốc độ tăng trưởng

    I : vốn đầu tư tăng thêm

    : tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP

    Qua công thức trên ta thấy hệ số ICOR góp phần quan trọng trong việc xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ đầu tư trong GDP với tốc độ tăng trưởng kinh tế.


    2.4. Đầu tư có ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế


    Kinh nghiệm các nước cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ mong muốn là tăng cườngđầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm ngư nghiệp do hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học nên đạt được tốc độ tăng trưởng cao là rất khó, việc đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng cường tỷ trọng của các ngành này trong GDP. Mặt khácđầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về sự phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa các lợi thế của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Như vậy chính sách đầu tư đúng đắn sẽ quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.


    2.5. Đầu tư sẽ tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước


    Đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay. Có hai con đường cơ bản để có được công nghệ đó là tự nghiên cứu phát minh và nhận chuyển giao công nghệ. Cả hai con đường này đều cần có vốn đầu tư . Mọi phương án đầu tư đổi mới công nghệ sẽ là không khả thi nếu như chúng ta không gắn liền với nguồn vốn đầu tư .


    3. Đầu tư tín dụng


    Đầu tư tín dụng là hoạt động tài trợ vốn trung và dài hạn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân. Hay nói cách khác đầu tư tín dụng là hoạt động sử dụng vốn tín dụng nhằm tiến hành các hoạt động tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có, làm tăng tài sản mới và năng lực sản xuất mới cho các cơ sở sản xút kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói chung.Vốn tín dụng được huy động từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn này được vay để cho vay đầu tư phát triển, đầu tư cho quá trình sản xuất kinh doanh.

    Các doanh nghiệp khi vay vốn tín dụng của ngân hàng để triển khai thực hiện dự án của mình đòi hỏi dự án trong quá trình vận hành cần phải thu hồi đủ vốn và đem lại lợi ích cho chủ đầu tư.


    3.1Đặc điểm của đầu tư tín dụng


    -Đầu tư tín dụng có sự tham gia của ngân hàng vào dự án đầu tư : Khi doanh nghiệp muốn vay vốn tín dụng để đầu tư họ phải có dự án đầu tư , dự án đó phải được ngân hàng thẩm định về các mặt như hiệu quả tài chính , hiệu quả kinh tế xã hội , thị trường .Khác với hoạt động đầu tư bằng tự tài trợ khi mà doanh nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu qủa của dự án, đầu tư tín dụng có sự tham gia của ngân hàng vào việc xét duyệt hiệu quả đầu tư của dự án và quyết định đưa ra sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả thu hồi vốn vay.Hơn nữa ngân hàng có chuyên môn trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án nên dự án được xem xét toàn diện hơn. Trong quá trình sử dụng vốn ngân hàng cũng tham gia vào dự án thông qua việc xem xét vốn có được sử dụng đúng mục đích hay không, giải ngân phải theo khối lượng công việc đã hoàn thành và được nghiệm thu, ngân hàng cũng có thể giúpdoanh nghiệp tìm kiếm thị trường, đối tác đầu tư .Khi dự án phát huy tác dụng, lợi nhuận có được phải dành ra để trả vốn gốc và lãi cho ngân hàng , như vậy trong đầu tư tín dụng lợi ích của bên cung ứng vốn tín dụng gắn liền với hiệu quả của dự án đầu tư .

    -Đầu tư tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro. Đầu tư tín dụng là hoạt động hoạ động kinh doanh qua tay người khác, dùng lượng tiền huy động được để cho vay nên bản thân nó chứa đựng nhiều rủi ro. Trước hết đó là rủi ro về nguồn vốn đầu tư (về phía ngân hàng ), khi chi phí về vốn tăng lên làm cho chi phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh, ngân hàng không huy động đủ số vốn cần thiết dẫn đến công tác giải ngân có thể chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án. Thứ hai là rủi ro từ bản thân dự án, một dự án đầu tư bao giờ cũng chứa đựng nhiều rủi ro do các chi phí bỏ ra thực hiện dự án ở hiện tại mà kết quả đạt được trong tương lai xa. Hơn nữa để đạt được kết quả đó quá trình thực hiện dự án chịu tác động của nhiều nhân tố từ bên ngoài như sự biến động của thị trường, việc thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước .Gây ra những điều bất lợi cho dự án.

    -Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh tế gắn liền với những bước thăng trầm của nền kinh tế, nó luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác. Do đó hiệu quả của việc đầ tư này không phụ thuộc vào ngân hàng mà nó còn chịu phần lớn tác động của người sử dụng vốn vay.

    -Việc đầu tư tín dụng trung và dài hạn luôn kéo theo sự huy động nhiều nguồn lực khác để phục vụ cho một mục tiêu nào đó. Chính sự huy động đó nếu đạt hiệu quả sẽ đem lại lợi ích cho nền kinh tế, xã hội, ngân hàng và cho người vay vốn ngược lại nó sẽ đem lại những tổn thất rất lớn không chỉ cho chủ đầu tư mà còn cho toàn xã hội.
     
Đang tải...