Tiểu Luận Thực trạng công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 30/10/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Giới thiệu tài liệu Thực trạng công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán & kiểm toán (AASC) thực hiện
    CHƯƠNG I
    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI ĐOẠN KẾT THÚC KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
    I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
    1. Khái niệm về kiểm toán tài chính
    Kiểm toán có gốc từ Latin là “Audit”. Nguyên bản “Auditing” gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Từ “Auditing” có nguồn gốc từ động từ Latin “Audive” nghĩa là “nghe”. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra về tài sản, phần lớn được thực hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi chấp nhận.
    Ngày nay, thuật ngữ “kiểm toán”không còn mang nghĩa nguyên thuỷ của nó nữa mà chỉ còn mang tính chất lịch sử. Ý nghiã này thực sự mới có từ thế kỷ XX, nhất là từ sau cuộc khủng hoảng năm 1929 cùng với sự sụp đổ của hàng loạt các công ty, tập đoàn tài chính lớn thì kiểm toán được mang ý nghĩa đầy đủ, cụ thể là ở Bắc Mỹ những năm 1930, ở Tây Âu từ những năm 1960. Do mỗi quốc gia, khu vực có hoàn cảnh kinh tế, xã hội khác nhau nên thời gian bắt đầu phát sinh hoạt động kiểm toán cũng khác nhau và đồng thời, cách hiểu và sử dụng khái niệm “kiểm toán” cũng không giống nhau.
    Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ tháng 5/1991 nhưng chưa thống nhất trong cách hiểu và sử dụng khái niệm. Có thể khái quát bốn quan niệm chủ yếu:
    Trong lời mở đầu giải thích cho các chuẩn mực kiểm toán của Vương quốc Anh có đưa ra định nghĩa:
    “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”.
    Theo quan điểm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ:
    “Kiểm toán là một quá trình mà theo đó, một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về các thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin có thể lượng hoá với các tiêu chuẩn đã được thiết lập”.
    Đối với các quan niệm chính thống trong giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà Pháp thì:
    “Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức, do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành, để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình thực tế, không che giấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.
    Và theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế (International Federation of Accountants - IFAC):
    “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về Báo cáo tài chính”
    Các định nghĩa trên đã nêu khá đầy đủ các đặc trưng cơ bản của kiểm toán do các kiểm toán viên độc lập (hoặc được bổ nhiệm) tiến hành trên cơ sở các chuẩn mực chung song do tính phổ biến của kiểm toán Báo cáo tài chính và do chủ thể của kiểm toán Báo cáo tài chính thường là kiểm toán viên độc lập nên đã có sự đồng nhất giữa khái niệm “kiểm toán” với khái niệm “kiểm toán báo cáo tầi chính”. Từ nội dung của các quan niệm trên có thể đưa ra khái niệm chính thức của kiểm toán Báo cáo tài chính như sau:
    Kiểm toán tài chính là việc kiểm toán để kiểm tra và xác nhận tính trung thực, hợp lý của Báo cáo tài chính cũng như việc các Báo cáo tài chính được lập có phù hợp với các nguyên tắc, các chuẩn mực kế toán được chấp nhận rộng rãi hay không?
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...