Tiểu Luận Thực trạng công tác quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn Việt Nam và một số giải pháp nhằm bảo vệ và p

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Mit Barbie, 27/11/11.

  1. Mit Barbie

    Mit Barbie New Member

    Bài viết:
    2,273
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Trong vài thập niên gần đây, cùng khoa học, con người đã tận thu quá đáng và làm khánh kiệt các nguồn tài nguyên, đặc biệt là các nguồn nguyên liệu khoáng vật. Điều đó đã dẫn đến mất cân bằng tự nhiên và làm biến đổi lớp vỏ bề mặt. Đặc biệt là với sự phát triển của nến văn minh công nghiệp đã làm giảm độ đa dạng sinh giới. Do nhu cầu phát triển và xây dựng các thành phố, khu công nghiệp – con người đã tàn phá và làm giảm diện tích rừng. Hàng năm trên thế giới có khoảng 170 000 km² rừng nhiệt đới bị mất. Ở Việt Nam, hàng năm có khoảng hơn 1 triệu ha rừng bị tàn phá. Việc diện tích đất rừng bị thu hẹp đã làm cho nhiều loài sinh vật không còn nơi trú ngụ và thức ăn, cộng với sự khai thác cơ giới của con người trong nông nghiệp dẫn đến khuynh hướng độc canh làm giảm sự đa dạng giống nòi, gây mất cân bằng sinh thái.
    Tầm quan trọng của hệ sinh thái rừng chắc hẳn ai cũng đều biết tới. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn(RNM). Nó không những có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ bờ biển, hạn chế tác hại của thiên tai mà nguồn lợi trong hệ sinh thái RNM cũng rất quan trọng; ngoài các lâm sản, phải kể đến tài nguyên thủy sản, được khai thác trực tiếp không chỉ trong các hệ thống kênh rạch, mà còn cả một vùng ven biển rộng lớn xung quanh. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò của hệ sinh thái RNM vẫn chưa đầy đủ, tình trạng phá RNM còn diễn ra ở một số nơi. Cho nên, việc quản lý bền vững hệ sinh thái này là trách nhiệm của chính quyền địa phương, các ngành nông lâm ngư nghiệp và cộng đồng ven biển.
    Chính vì những nguyên nhân đó đã thôi thúc em thực hiện bài tiểu luận:"Thực trạng công tác quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn Việt Nam và một số giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn"




    I. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
    Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái độc đáo nhưng những nghiên cứu về chúng còn rất ít. Trong khi đó một phần lớn diện tích bờ biển nhiệt đới và cận nhiệt đới tại Châu Phi rừng ngập mặn chiếm ưu thế vượt trội. Theo con số ước tính có khoảng 16 triệu ha RNM trên toàn cầu, đây là một nguồn tài nguyên có nhiều giá trị. Sự phân phối các RNM đa phần tương ứng với rừng mưa nhiệt đới, tuy nhiên một phần nào đó mở rộng đến phía bắc và phía nam xích đạo, thỉnh thoảng vượt ngoài vùng nhiệt đới. Trong vài thập niên trước, những vùng có RNM che phủ đã sụt giảm mạnh do những hành vi của con người, như thu hoạch quá mức, phân dòng nước ngọt cũng như nhiều hành động khác.
    Theo địa lý sinh học có hai khu vực trồng RNM riêng biệt trên thế giới: Tại Tây Phi, Vùng biển Caribee và Châu Mỹ; thứ hai là bờ biển Châu Phi, Madagascar và khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương. Trái ngược với địa điểm đầu tiên - vùng Atlantic - chỉ chứa mười loài cây, Ấn Độ Thái Bình Dương số lượng các loài cây trong rừng phong phú hơn nhiều (hơn 40 loài cây).
    Các khu RNM được coi là lá phổi không thể thiếu đảm bảo cho hệ sinh thái ven biển phát triển lành mạnh. Các cánh rừng này chứa đựng chủ yếu là lá rơi và cành cây cung cấp dinh dưỡng cho môi trường biển, và hỗ trợ các loài thủy sinh lượng thực phẩm phong phú thông qua các mảnh vụn hoặc gián tiếp thông qua các sinh vật phù du và dây chuyền cung cấp thức ăn bằng tảo.
    Một nhân tố cơ bản của môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến RNM trong thời gian dài chính là mực nước biển và sự biến động trong các đại dương. Những nhân tố khác có sự tác động ngắn hơn là nhiệt độ không khí, độ mặn của nước biển, dòng chảy đại dương, bão tố, độ dốc bờ biển và nền đất. Phần lớn RNM phát triển trên nền đất ẩm ướt, bùn lầy nhưng chúng cũng phát triển được trên cát, than bùn và đá san hô.
    Nếu thuỷ triều thuận lợi, RNM có thể phát triển mạnh mẽ sâu trong đất liền, phía trên những cửa sông ven bờ biển. Đặc biệt tại vùng Tây Phi, chúng thậm chí có thể phát triển rất sâu phía trong nội địa. Sông Gambia, hệ thống sông Sine - Saloum ở Senegal, sông Casamance, những nhánh sông của Ghinê - Bissau, sông Niger và các sông Camơrun phần lớn trên bờ được che phủ bằng rừng đước, có nơi kéo dài hơn 100 km từ bờ biển phía ngoài.
    Trong một số trường hợp khác - khi một số lượng lớn nước ngọt đều đổ vào đại dương, toàn bộ các đảo cách bờ hàng chục km không trông thấy gì ngoài RNM, tương tự như phần lớn các quần đảo tại Guinea-Bissau. Một số bán đáo bên ngoài Bijagos, như Ilha de Orango - cách bờ biển khoảng 100 km là nguồn cung cấp nước ngọt. Nhưng trong vùng nước nông ngoài Guinea-Bissau, độ mặn đủ thấp cho các cây trong hệ thống RNM lọc muối khỏi nước biển để pha trộn với nước ngọt và nước sông.
    Những sự điều chỉnh mang tính cách mạng nhằm biến đổi môi trường bờ biển đã tạo ra những đặc trưng sinh học nổi bật trong cộng đồng RNM. Một số loài cây nhất định loại trừ muối ra khỏi hệ sinh thái của mình, một số lại thải muối được tiếp nhận thông qua lá, rễ hoặc nhánh cây. Hệ thống rễ cây RNM có khả năng loại bỏ muối hiệu quả đến mức có thể lọc muối ra khỏi nước ngọt dành cho người du hành đang khát, ngay cả khi bản thân chúng đang phát triển trong vùng đất đầy muối.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...