Luận Văn Thực trạng công tác quản lí tài chính bhxh tại việt nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH TẠI VIỆT NAM

    CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ
    TÀI CHÍNH BHXH TẠI VIỆT NAM


    I. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam.
    1.Khái quát về sự hình thành và quá trình phát triển của BHXH Việt Nam
    1.1.BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995.
    Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù còn rất nhiều khó khăn và phải giải quyết nhiều công việc hệ trọng của đất nước nhưng Nhà nước ta vẫn luôn dành sự quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Trước tiên Chính phủ cách mạng đã áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo kháng chiến nay đã già yếu. Sau cách mạng tháng Tám thành công do còn khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được thực hiện đến năm 1949.
    Năm 1950, Hồ Chủ Tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy chế công nhân. Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những quyền lợi về chế độ hưu trí. Nhìn lai chính sách BHXH giai đoạn này chúng ta có thể nhận thấy các chính sách được xây dựng và thực hiện ngay sau khi dành được độc lập tuy hoàn cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn. Mặt khác các chính sách triển khai thực hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà nước. Nguồc chi 100% lấy từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên.
    Đến ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH tạm thời về các chế độ BHXH cho cán bộ, công nhân viên kèm theo Nghị định 218/ CP. Tiếp theo đó là Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 ban hành Điêu lệ BHXH tạm thời đối với quân nhân. Như vậy đối tượng được tham gia BHXH đã mở rộng, và áp dụng cho 6 loại chế độ gồm: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy là các chế độ của BHXH Việt Nam được triển khai khá đầy đủ từ rất sớm. Hơn nữa tài chính thời kì này bắt đầu quy định có sự đóng góp một phần của các xí nghiệp, phần còn lai vẫn do NSNN cấp. Đến năm 1985 cùng với cải cách tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 236/HĐBT có những sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng góp của các đơn vị sản suất kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản lí bao cấp không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù cấp là chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro nhiều Bộ ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ nội vụ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi, Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam). Song chịu trách nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
    Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI ( tháng 12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có những chuyển biến. Nội dung cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế bao cấp trong quản lí, mở ra loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP về những quy định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó có quy định tăng mức đóng BHXH và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH. Cơ chế hoạt động của BHXH được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao động do Quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá trong Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ đây ngành BHXH Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của mình.
    1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995.
    Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi mới thực sự từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được hưởng BHXH sang hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng, có chia sẻ rủi ro. Về quản lí hoạt động BHXH từ chỗ phân tán do nhiều cơ quan khác nhau đảm nhận, nay tập chung thống nhất về một đầu mối là BHXH Việt Nam. Trên cơ sở quy định đóng BHXH, chính sách thời kì này xác lập rõ cơ chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Theo đó quỹ BHXH Việt Nam do BHXH Việt Nam quản lí chỉ chịu trách nhiệm đối với người lao động từ năm 1995 trở đi, còn NSNN đảm bảo chi trả cho những đối tượng nghỉ làm việc trước năm 1995.
    BHXH Việt Nam mở rộng đối tượng tham gia, bao gồm thêm các doanh nghiệp kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên ( hiện nay là bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp có sử dụng lao động); cán bộ xã phường, thị trấn; các lao động làm việc trong các cơ sở Y tế, Giáo dục, Văn hoá và Thể thao ngoài công lập. BHXH cũng quy định lại hiện nay chỉ còn 5 chế độ trợ cấp : ốm đau; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; thai sản; hưu trí và tử tuất (bỏ chế độ nghỉ mất sức lao động). Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP và 45/CP là những quy định pháp lí được thực hiện đến nay và chỉ có những sửa đổi nhỏ.
    Với mục đích:
    Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình mới trong chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010.
    Phục vụ và đáp ứng yêu cầu tốt hơn cho người tham gia BHXH, BHYT và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức sủ dụng người lao động đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
    phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả hệ thống BHXH và BHYT.
    Ngày 24/1/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/ QĐ- TTg về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam.
    Ngày 16/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP quy định chức năng, nhiệm cụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Trong đó khẳng định BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT (gọi chung là BHXH) và quản lí Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Đến tháng 1/2003 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg ban hành về quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam. Kèm theo đó là Quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam bao gồm những quy định chung áp dụng trong quản lí tài chính.
    2. Chính sách BHXH Việt Nam từ năm 1995 đến nay.
    Nghị định số 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 của chính phủ ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện thống nhất trong cả nước. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp tử tuất. Những người làm việc ở những đơn vị, tổ chức sau đây là những đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc: các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng đoàn thể, lực lượng vũ trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, chính trị- xã hội.
    Ngày 15/7/1995 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 45/CP về Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân, công an nhân dân. Các chế độ BHXH này gồm có: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất.
    Nghị định số 09/ 1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ xung một số điều củ Nghị định 50/CP ngày 26/7/2995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối cới cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ cấp xã tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng là những cán bộ làm công tác Đảng, chính quyền và trưởng các đoàn thể: Chủ tịch Mặt trận, Hội trưởng hội phụ nữ, Hội trưởng hội nông dân, Hội trưởng Hội Cựu chiến binh, Bí thư đoàn THCS Hồ Chí Minh và các cán bộ chưc danh chuyên môn là Văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, địa chính, tư pháp, tài chính- kế toán.
    Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao được quy định trong Nghị định số 73/ 1999/ NĐ- CP ngày 19/8/1999. Nghị định này cho phép thành lập các cơ sở ngoài công lập dưới các hình thức như bán công, dân lập, tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhưng phải phù hợp với quy hoạch của Nhà nước, không theo mục đích thương mại và đúng theo quy định của của pháp luật. Người lao động làm việc trong các cơ sở ngoài công lập được tham gia và hưởng mọi quyền lợi về BHXH như người lao động trong các đơi vị công lập.
    Đối với người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài phải tham gia BHXH bắt buộc và được hưởng các chế độ BHXH hưu trí và tử tuất. Điều này được quy định trong Nghị định số 52/1999/ NĐ- CP ban hành ngày 20/9/1999.
    Ngày 15/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2000/NĐ- CP về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp, và sinh hoạt phí đối với các các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí. Trong đó có quy định tăng mức tiền lương tối thiểu từ 180 000 đồng lên 210 000 đồng/ tháng. Cùng năm đó Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 71/2000/ NĐ-CP quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ công chức đến độ tuổi nghỉ hưu. Tức là cán bộ công chức đến tuổi nghỉ hưu được xem xét kéo dài thêm thời gian công tác đối với các đối tượng làm công tác nghiên cứu, những người có học vị tiến sĩ, chức danh Giáo sư, Phó giáo sư, những người có tài năng. Thời gian kéo dài có thể từ 1 đến 5 năm với điều kiện cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng có nhu cầu và cán bộ, công chức đó tự nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc.
    Năm 2001 Chính phủ tiếp tục ra hai Nghị định 04/2001/NĐ-CP và 61/2001/NĐ-CP. Nghị định 04 quy định chi tiết về một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 19

     
Đang tải...