Luận Văn Thực trạng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Thực trạng cạnh tranh của hàng nông sản VN trên thị trường

    Chương II
    Thực trạng cạnh tranh của hàng nông sản
    Việt Nam trên thị trường


    1. Tình hình sản xuất hàng nông sản của Việt Nam.
    Việt Nam với đặc trưng là một nước nông nghiệp, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất hàng nông sản phát triển. Một số mặt hàng nông sản đã là thế mạnh của Việt Nam trong thời gian qua như: cà phê, cao su, hạt điều .
    Thứ nhất, mặt hàng cà phê được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam trên nhiều tỉnh trung du, cao nguyên và miền núi. Trước kia cà phê được trồng gồm 3 loại: cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta) và cà phê mít (Exceta). Nay chỉ còn cà phê chè và cà phê vối được trồng ở những vùng sinh thái khác nhau. Do chú trọng đầu tư thâm canh nên cà phê Việt Nam đã cho năng suất và sản lượng cao. Liên tục nhiều năm năng suất tăng rõ rệt từ 600-700kg nhân/ha, nay đạt bình quân 1,4 tấn nhân/ha, cá biệt có nơi từ 4-4,5 tấn nhân/ha. World bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê vối (Robusta) của Việt Nam 1,48 tấn/ha xếp thứ nhì thế giới, sau Contatica (1,5 tấn/ha), xếp trên Thái Lan (0,99 tấn/ha).Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt Nam cũng đang tăng ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng và đến năm 1999 - 2000 vẫn ở vị trí thứ 2 sau Brazil.
    Thứ hai, mặt hàng hạt điều.
    Trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu thì hạt điều chiếm một vị trí quan trọng, kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 100 triệu USD, xếp thứ ba trên thế giới về sản lượng và đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu. Kế hoạch của ngành điều đến năm 2005 là nâng sản lượng điều thô lên 230 nghìn tấn, xuất khẩu 45.000 tấn hạt điều nhân, kim ngạch 220 triệu USD năm.
    Trong một thời gian dài, nghề hạt điều phát triển một cách tự phát, lại không được quy hoạch. Sản lượng điều thu hoạch niên vụ 1998 vào khoảng 100.000 tấn, niênvụ 1999 chỉ còn 70.000 tấn đáp ứng chưa được 30% nhu cầu của các nhà máy chế biến. Vụ điều năm 2000 sản lượng đã lên đến 160.000 tấn và là sản lượng cao nhất kể từ trước đó. Nhưng nhìn chung năng suất của điều Việt Nam còn rất thấp, bình quân chung cả nước khoảng 7 tạ/ha. Nguyên nhân khách quan là do thời tiết thất thường, sâu bệnh nhưng chính những yếu tố chủ quan lại là yếu tố tác động lâu dài và trực tiếp nhất. Đó chính là giống điều lâu nay đem trồng không được tuyển chọn qua các cơ quan chuyên ngành, hoàn toàn do nông dân tự chọn, nguồn dinh dưỡng từ đất đã cạn kiệt sau nhiều năm thu hoạch nhưng không được bồi dưỡng, làm cỏ, cải tạo. Hậu quả là nhiều diện tích cho năng suất thấp, cây điều bị thoái hóa, không ra quả. Do đó nhà nước cần hỗ trợ nông dân qua các công tác khuyến nông và tín dụng nông nghiệp, mặt khác cần đầu tư bằng vốn ngân sách, xây dựng các hệ thống trang trại thí nghiệm, chọn giống, nhân giống, phổ biến kỹ thuật cho các vùng sinh thái - sản xuất điều khác nhau. Đây là yếu tố hàng đầu giúp nông dân nâng cao năng suất.
    Thứ ba, một số sản phẩm nông nghiệp khác.
    Một số mặt hàng nông sản khác của nước ta đã có bước phát triển rõ rệt, sản xuất tăng trưởng liên tục với nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế đang dần được chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của các vùng, các địa phương cũng như trong cả nước, đã hình thành nhiều vùng hàng hóa tập trung tương đối lớn. Kinh tế nông thôn có những bước chuyển biến khá, đời sống nông dân ở nhiều vùng được cải thiện, nhưng vấn đề nổi bật là các loại sản phẩm này có chất lượng thấp, tổ chức tiêu thụ còn nhiều yếu kém, thường xuyên xảy ra tình trạng, nhiều khi tiêu thụ không kịp, nhất là trong vụ thu hoạch, giá cả xuống thấp gây thiệt hại cho nông dân. Tình trạng này kéo dài làm cho người làm nông sản buộc phải chuyển đổi các loại cây trồng, hoặc quy về sản xuất tự cung tự cấp, hoặc chuyển sang nghề kia.
    Qua những yếu tố trên đây có thể nói tình hình sản xuất hàng nông sản của Việt Nam vẫn mang tính chất của nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp và mới đang trong quá trình chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, năng suất lao động thấp do đó kéo dài thời gian sản xuất sản phẩm nên không tạo được sức cạnh tranh trên thị trường.
    2. Thực trạng công nghệ chế biến nông sản ở Việt Nam.
    Hàng nông sản của Việt Nam ở vị trí khá cao so với các quốc gia khác, hàng nông sản của ta có mặt hầu hết trên tất cả các thị trường của thế giới nhưng lượng ngoại tệ thu về từ hàng nông sản vẫn còn rất khiêm tốn do giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt điều .đều bán thấp hơn giá thế giới từ 20 - 40USD, thậm chí còn thấp hơn. Công nghệ và các cơ sở chế biến nông sản của Việt Nam trong thời gian dài ít được quan tâm đầy đủ, một phần do khó khăn về nguồn vốn đầu tư nên trình độ công nghệ thấp và chậm được đổi mới, tổn thất sau thu hoạch còn rất lớn. Cơ sở chế biến hàng nông sản xuất khẩu còn ít như ngành cà phê mới chỉ có khoảng 20 cơ sở hcế biến công nghiệp hoàn chỉnh, chủ yếu là sơ chế đảm bảo chiếm khoảng 30% sản lượng cà phê/năm. Mặt hàng hạt điều tuy đã phát triển nhanh và chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu nhân hạt điều nhưng mức độ cơ giới hóa trong quy hoạch quy trình công nghệ chế biến điều còn thấp, các nhà máy mới chỉ thu đựoc sản phẩm chính để xuất khẩu là nhân điều, chưa áp dụng được quy trình "chế biến không phế liệu" để thu hoạch các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ, nên đã đạt hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy các nhà máy chế biến chưa thể nâng cao được giá thu mua các mặt hàng nông sản thô từ nông dân, một yếu tố để kích thích nông dân tích cực gieo trồng hàng nông sản.
    Đa số công nghệ của ta còn giản đơn, thô sơ, lạc hậu, mang nặng tính kinh nghiệm, thậm chí những điều kiện tối thiểu sân phơi, máy sấy, kho bảo quản cũng không đủ. Do đó vấn đề cần giải quyết là nhà nước cần phải có kế hoạch cân đối lại giữa công suất chế biến và nguồn nguyên liệu, mở rọng hoạt động điều phối giữa các xí nghiệp chế biến hàng nông sản thông qua Hội nông dân Việt Nam.
    3. Tình hình tiêu thụ hàng nông sản trong thị trường nội địa.
    Hàng nông sản là sản phẩm thiết yếu của mọi người dân như gạo, chè, cà phê . tuy vậy do mức sống của nhân dân ta còn thấp nên các sản phẩm nông sản được sản xuất ra chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu mà tiêu thụ cho thị trường trong nước chủ yếu là các sản phẩm thô, thứ cấp với giá rẻ hơn gấp nhiều lần như mặt hàng cà phê tiêu thụ trong nội địa chỉ đạt khoảng 6000 tấn/năm chiếm 1,5 - 2% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra. Tuy vậy, với mức sống như hiện nay, hơn 300USD/người/năm thì nhu cầu của người dân đã được cải thiện do đó nhu cầu về tiêu thụ nông sản ở thị trường trong nước cũng sẽ tăng lên nghĩa là mức tiêu thụ nội địa sẽ tăng.
    4. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
    Có thể nhận xét rằng nhóm mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng bình quân của thế giới và cao hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan (ở mặt hàng gạo và cà phê), Indonexia về cà phê, cao su . kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan có xu hướng tăng từ dưới 30% (trước năm 1998) lên mức cao hơn trong năm 2000 nhưng với giá cả hạ hơn, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với Ấn Độ cũng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng tăng mạnh nhưng tốc độ lại chậm hơn các sản phẩm khác từ 5,87% năm 1992 lên 13,6% năm 2000. Các số liệu đã chứng tỏ rằng mức chênh lệch mặt hàng gạo và cà phê được thích hợp nhiều nhất trong bốn mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Điều đó cũng cho thấy rằng thời gian qua sức cạnh tranh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam được cải thiện đáng kể, nhưng nếu đi sâu phân tích thì thực sự vẫn còn nhiều băn khoăn về tình hình xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam.
     
Đang tải...