Luận Văn Thực trạng áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Thực trạng áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng hoá XNK



    Chương 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ÁP DỤNG QUẢN LÝ RỦI RO VÀO QUY TRÌNH THỦ TỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐỐI VỚI HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU

    1.1.1. Sự cần thiết của quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu

    1.1.1.1. Bản chất của quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu

    Giao lưu hàng hóa giữa các quốc gia là một xu hướng mang tính tất yếu khách quan do tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện còn tồn tại các quốc gia có chủ quyền chính trị và chủ quyền kinh tế độc lập thì thương mại quốc tế còn chịu ảnh hưởng rất lớn của chính sách quốc gia, trong đó kiểm soát nhà nước đối với hàng hóa qua lại biên giới có tầm quan trọng đặc biệt.

    Xét trên phương diện lợi ích quốc gia và quốc tế, sự kiểm soát này là cần thiết để phòng, chống lại các hành vi lợi dụng thương mại quốc tế phục vụ các mục tiêu không có lợi cho quốc gia nói riêng, loài người nói chung như buôn lậu, XNK hàng hóa thuộc danh mục cấm Cơ quan được nhà nước ủy quyền làm chức năng kiểm soát hàng hóa qua lại biên giới là Hải quan.

    Theo quan niệm của tổ chức Hải quan thế giới (WCO) thì Hải quan là cơ quan trực thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành luật Hải quan về thu thuế hải quan và các thuế khác, đồng thời chịu trách nhiệm thi hành các luật khác có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, vận chuyển hay lưu kho hàng hoá.

    Theo điều 11 Luật Hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì“Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện việc kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải: phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá XNK ; thống kê hàng hoá XNK ; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động XNK , xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá XNK ”.

    1.1.1.2.Tác động của quản lý hải quan đối với hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa

    Hoạt động hải quan có tác động hai mặt đối với hoạt động XNK hàng hóa.

    Một mặt, quản lý hải quan là cần thiết để thực thi các chính sách của Nhà nước nhằm định hướng hoạt động XNK hàng hóa phục vụ lợi ích quốc gia. Trước hết cơ quan hải quan làm nhiệm vụ kiểm soát XNK , quá cảnh để ngăn ngừa các hành vi lợi dụng giao dịch thương mại qua biên giới làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và loài người.

    Thứ hai, quản lý hải quan đóng vai trò quan trọng trong thực thi các chính sách kinh tế của Chính phủ. Thông qua hoạt động thu thuế và áp dụng các thủ tục hải quan, cơ quan hải quan triển khai thực hiện các chính sách khuyến khích hay cản trở một số loại hàng hoá nào đó đi ra hoặc đi vào biên giới nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia.

    Cơ quan hải quan cũng giúp Chính phủ thực hiện chính sách tự vệ hợp pháp thông qua chức năng cung cấp thông tin và hỗ trợ điều tra về hàng nhập khẩu. Ngoài ra, hải quan còn là bộ mặt của quốc gia trong quan hệ với khách quốc tế. Thái độ, năng lực, trình độ tổ chức và tính chuyên nghiệp của hoạt động hải quan phản ánh văn hoá ứng xử và trình độ tổ chức quản lý quốc gia. Hoạt động hải quan chuyên nghiệp và hiệu quả làm tăng thiện cảm của đối tác trong quan hệ với quốc gia.

    Thứ ba, quản lý hải quan hỗ trợ và tạo điều kiện cho thương mại phát triển, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển đất nước. Chi phí hải quan trong giao dịch thương mại quốc tế càng giảm, thủ tục hải quan càng đơn giản thì ngành ngoại thương càng có điều kiện phát triển. Thương mại quốc tế phát triển sẽ khuyến khích đầu tư , nhất là đầu tư nước ngoài, khuyến khích tiêu dùng, khuyến khích sản xuất, kinh doanh trong nước. Không những thế, chi phí hải quan thấp còn làm cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng đều có lợi do giá cả hàng hoá được hạ thấp một cách phổ biến. Chính vì thế, những nước có khả năng tạo lập môi trường hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài và có khả năng tiền hành các hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả đều là những nước đạt mức tăng trưởng và phát triển cao.

    Thứ tư, hải quan góp phần duy trì một sân chơi bình đẳng cho cho tất cả các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Có thể nói như vậy là do các thủ tục ở biên giới ngày càng trở nên phức tạp do yêu cầu chính sách và thủ tục liên quan trực tiếp đến các cam kết thương mại quốc tế và khu vực. Khi áp dụng thủ tục hải quan như nhau với mọi hàng hoá và đối tượng, hải quan đã tạo môi trường để các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau.

    Mặt khác, quản lý hải quan cũng có tác động hạn chế hoạt động thương mại nếu như không được cải cách phù hợp với yêu cầu thực tế.

    Tác động hạn chế thứ nhất là làm tăng thời gian và chi phí lưu thông hàng hóa XNK do quá trình vận chuyển phải ngưng lại để làm thủ tục kiểm tra hải quan. Nếu cơ quan hải quan kém năng lực, quy trình kiểm tra lạc hậu thì hàng hóa XNK sẽ phải chờ đợi rất lâu, vừa mất thời gian, vừa mất cơ hội giao hàng đúng hạn. Hơn nữa, chủ hàng còn mất thêm chi phí lưu kho, lưu bãi, thậm chí có trường hợp phải thêm tiêu cực phí. Đây là cản trở lớn nhất của quản lý hải quan đối với ngoại thương.

    Tác động hạn chế thứ hai là tạo rào cản giao lưu hàng hóa qua biên giới thông qua thuế quan và các điều kiện thông quan khác. Khi thuế quan khá cao, hàng hóa khi qua biên giới phải gánh thêm một khoản chi phí khá lớn làm tăng giá bán nên hạn chế sức cạnh tranh và quy mô tiêu thụ. Ngoài ra, sự kiểm soát hải quan đôi khi còn được một số quốc gia sử dụng như một thủ tục làm giảm động lực đưa hàng qua biên giới do tính chất quá phức tạp của nó. Chính vì tác động cản trở này nên các tổ chức liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đang nỗ lực đàm phán để các nước tự nguyện hạ thấp hàng rào bảo hộ ở biên giới.

    Tác động cản trở thứ ba là tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, giữa hàng xuất khẩu và hàng tiêu thụ trong nước. Hàng xuất khẩu được hoàn thuế giá trị gia tăng, hàng nhập khẩu phải nộp thuế đã tạo ra mặt bằng không giống nhau giữa hàng tiêu dùng nội địa và hàng xuất, nhập khẩu. Tác động này không những gây khó khăn cho hoạt động ngoại thương mà còn tiềm ẩn nguy cơ trốn thuế và lợi dụng hoàn thuế nhằm thu lợi.

    Tóm lại, quản lý hải quan đối với hàng hóa XNK vừa mang yếu tố cần thiết khách quan, vừa mang yếu tố cản trở ở mức độ nhất định giao lưu thương mại quốc tế. Chính vì thế, yêu cầu cải cách hải quan phổ quát trên thế giới là làm sao để quản lý hải quan cân bằng được hai yêu cầu kiểm soát và tạo thuận lợi cho thương mại.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...