Đồ Án Thực tế tổ chức hạch toán CPSX & tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 7 –Vinaconex

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN1

    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨN XÂY LẮP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP


    1. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG CƠ BẢN.

    1.1. Đặc điểm của hoạt động xây dựng cơ bản.


    Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Xây dựng cơ bản tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. Một đất nước muốn phát triển thì phải có nền cơ sở hạ tầng vững chắc. Như vậy, so với các ngành sản xuất vật chất khác thì ngành xây dựng luôn đi trước một bước.
    Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại các tổ chức xây dựng như : Tổng công ty, công ty, xí nghiệp, đội xây dựng thuộc các thành phần kinh tế. Tuy các đơn vị này khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng đều là tổ chức nhận thầu, hoặc theo đơn đặt hàng. Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt khác với các ngành sản xuất khác cụ thể như sau:
    - Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc có quy mô đa dạng, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
    - Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu)
    - Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện để sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, nhân công ) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm.
    - Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại được chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc này thường diễn ra ngoài trời nên chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, bão, lụt Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán: Các nhà thầu có trách nhiêm bảo hành công trình (chủ đầu tư giữ lại một tỉ lệ nhất định trên giá trị công trình, khi hết thời hạn bảo hành công trình mới trả lại cho đơn vị xây lắp )
    - Các công trình được ký kết tiến hành thi công đều dựa trên đơn đặt hàng cụ thể hoặc hợp đồng cụ thể do đó khối lượng xây lắp, thiết kế mỹ thuật, tiến độ thi công của công trình phải được thực hiện đúng hợp đồng, Công ty không thể tự ý thay đổi được.

    1.2. Đặc điểm của hoạt động xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến công tác kế toán .

    Đặc điểm của sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong đơn vị xây lắp thể hiện chủ yếu ở nội dung, phương pháp trình tự hạch toán chi phí sản xuất, phân loại chi phí , cơ cấu giá thành xây lắp, cụ thể như sau:
    - Đối tượng hạch toán chi phí có thể là hạng mục công trình, các giai đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công trình , từ đó xác định phương pháp hạch toán chi phí cho thích hợp.
    - Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong xây dựng cơ bản, dự toán được lập theo từng hạng mục chi phí . Để có thể so sánh kiểm tra chi phí sản xuất xây lắp thực tế phát sinh so với dự toán, chi phí sản xuất xây lắp được phân loại theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công , chi phí sản suất chung.
    - Chi phí nhân công trực tiếp trong các doanh nghiệp sản xuất bao gồm cả các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KHCĐ) nhưng những khoản chi phí này không được đưa vào chi phí nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp mà dược đưa vào chi phí sản suất chung (TK627).

    1.3. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.

    Trong công tác quản lý doanh nghiệp , chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn luôn được các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm. Thông qua nhữg thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm do bộ phận kế toán cung cấp, những nhà quản trị doanh nghiệp nắm được chi phí và giá thành trực tiếp của từng hoạt động, từng công trình, hạng mục công trình cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí , tình hình sử dụng tài sản, vật tư lao đông, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có các quyết định quản lý hợp lý. Để đáp ứng đầy đủ, trung thực và kịp thời yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành của doanh nghiệp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
    - Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành thích hợp.
    - Tổ chức hạch toán và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng bằng phương pháp thích hợp đã chọn cung cấp kịp thời, chính xác những số liệu thông tin tổng hợp về các khoản mục chi phí và yếu tố chi phí quy định, xác định đúng đắn chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
    - Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính giá thành của từng công trình, hạng mục công trình theo đúng các khoản mục quy định và đúng kỳ tính giá thành đã xác định

    2. CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.

    2.1. Khái niệm và bản chất chi phí sản xuất xây lắp.


    Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là quá trình chuyển biến của vật liệu xây dựng thành sản phẩm dưới tác động của máy móc thiết bị cùng sức lao động của công nhân. Nói cách khác, các yếu tố về tư liệu lao động, đối tượng lao động dưới sự tác động có mục đích của sức lao động qua quá trình thi công sẽ trở thành sản phẩm xây dựng. Tất cả những hao phí này được thể hiện dưới hình thái giá trị thì đó là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại khác nhau, công dụng và mục đích khác nhau song chung quy gồm có chi phí về lao động sống như chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương; chi phí về lao động vật hoá như nguyên vật liệu , khấu hao về TSCĐ
    Đứng trên góc độ quản lý các thông tin về chi phí là hết sức quan trong vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận , do đó việc quản lý và giám sát chặt chẽ chi phí là hết sức cần thiết. Để có thể giám sát và quản lý tốt chi phí cần phải phân loại chi phí theo các tiêu thức thích hợp.

    2.2. Phân loại chi phí sản xuất xây lắp.

    Việc quản lý sản xuất, chi phí sản xuất không chỉ dựa vào các số liệu tổng hợp về chi phí sản xuất mà còn căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí theo từng công trình, hạng mục công trình theo từng thời điểm nhất định. Do vậy, tuỳ theo yêu cầu quản lý, giác độ xem xét chi phí mà các loại chi phí được sắp xếp, phân loại
    theo các tiêu thức khác nhau.

    2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung của chi phí .


    Theo cách phân loại này, các yếu tố có cùng nội dung kinh tế được sắp xếp chung vào một yếu tố không phân biệt chi phí sản xuất được phát sinh ở dâu hay dùng vào mục đích gì trong sản xuất nhằm tổng hợp và cân đối mọi chỉ tiêu kinh tế và kế hoạch của doanh nghiệp . Toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ đối với doanh nghiệp xây lắp được chia thành các yếu tố như sau:
    - Chi phí nguyên vật liệu : Là những chi phí nguyên vật liệu không phân biệt trực tiếp hay gián tiếp như xi măng, sắt thép, vật liệu phụ, nhiên liệu
    - Chi phí sử dụng nhân công: Là những chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương.
    - Chi phí khấu hao TSCĐ: Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ sủ dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
    - Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền phải trả về các dịch vụ mua ngoài sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp như tiền điện, tiền nước, tiền tư vấn, sửa chữa lớn thuê ngoài
    - Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm các chi phí dùng chi hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài bốn yếu tố chi phí đã nêu trên.
    Việc phân loại chi phí theo yếu tố có ý nghĩa lớn trong quản lý. Nó cho biết cơ cấu chi phí theo nội dung kinh tế để phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất. Nó là cơ sở để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu sử dụng vốn lưu động định mức. Đối với công tác kế toán nó là cơ sở để lập các báo cáo tài chính , giám đốc tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, giúp sử dụng tài khoản cấp hai khi phân loại chi phí mang nội dung tổng hợp, ngoài ra nó còn là cơ sở để tính thu nhập quốc dân (c+v+m), đánh giá khái quát tình hình tăng năng suất lao động.
     
Đang tải...