Thạc Sĩ Thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam giai đoạn hiện

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 29/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    MỞ ĐẦU 1
    CHƯƠNG 1.
    THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG HOẠT ĐỘNG
    TRONG KHUÔN KHỔ HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT –
    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

    1.1. Những vấn đề cơ bản về nguyên tắc Đảng hoạt động
    trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật 17

    1.2. Thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam - Quan niệm, nội dung
    CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
    THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC ĐẢNG HOẠT ĐỘNG
    TRONG KHUÔN KHỔ HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT
    Ở VIỆT NAM

    2.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong
    khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam 52

    2.2. Nguyên nhân, kinh nghiệm bước đầu và những vấn đề
    đặt ra 75
    CHƯƠNG 3.
    PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT
    NGUYÊN TẮC ĐẢNG HOẠT ĐỘNG TRONG KHUÔN
    KHỔ HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM GIAI
    ĐOẠN HIỆN NAY 42

    3.1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn và quan điểm chỉ đạo
    thực hiện nguyên tắc
    88

    3.2. Những giải pháp chủ yếu 92

    3.2.1.Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
    thức, trách nhiệm cho cấp uỷ các cấp và cán bộ, đảng viên về
    nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
    pháp luật 92

    3.2.2. Thực hiện mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng, chỉnh
    đốn Đảng để Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị và đường lối
    đúng đắn, là cơ sở để Nhà nước luật hoá một cách chính xác,
    xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng trực tiếp
    thực hiện có kết quả nguyên tắc 97

    3.2.3. Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
    nghĩa đủ sức thể chế hoá Cương lĩnh, đường lối của Đảng 101 thành hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và đồng bộ
    và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả

    3.2.4. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát
    huy vai trò người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp, cụ
    thể hoá chi tiết vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng, giải
    quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng
    với chấp hành pháp luật của đảng viên 109

    3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
    việc thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp, pháp luật 122
    KẾT LUẬN
    127
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 131
    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định:
    sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
    mạng. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng là trung tâm tập hợp,
    phát huy trí tuệ, vật lực của toàn dân tộc thành sức mạnh to lớn đánh đuổi kẻ thù
    xâm lược, lật đổ chế độ áp bức, bóc lột giành thắng lợi lịch sử, đưa nhân dân lao
    động lên vị thế người chủ đất nước. Trong công cuộc xây dựng CNXH, nhất là
    trong công cuộc đổi mới hiện nay, trước những khó khăn, thách thức quyết liệt
    chưa từng có, Đảng đã sáng suốt khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
    toàn diện đất nước giành những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Điều đó khẳng
    định vị trí, vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng. Trở thành đảng cầm
    quyền, Đảng có hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong đó Nhà nước
    là công cụ sắc bén của Đảng và nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước xây dựng
    Hiến pháp, pháp luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn dân, mục tiêu, lý
    tưởng của Đảng; Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành
    Hiến pháp và pháp luật. Thông qua Nhà nước Đảng lãnh đạo toàn xã hội.
    Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên
    đều là lực lượng tiên phong, lãnh đạo toàn xã hội. Là đảng viên của Đảng, trước
    hết phải là công dân tốt, tức là gương mẫu và chấp hành nghiêm Hiến pháp và
    pháp luật. Hơn nữa, chúng ta đang thiết lập xã hội dân sự, xây dựng Nhà nước
    pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân thì đòi hỏi của tính kỷ
    cương, kỷ luật càng cao, không có một tổ chức, cá nhân nào đứng ngoài hoặc
    đứng trên pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước được tổ chức và
    hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến
    pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ
    công chức nhà nước và các thành viên khác của xã hội phải tôn trọng và thực
    hiện pháp luật một cách nghiêm minh tự giác. Nhà nước phải quản lý xã hội
    theo pháp luật và bằng pháp luật. Mọi vi phạm pháp luật phải được pháp luật xử lý nghiêm minh, kịp thời, thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp
    luật Chính vì thế, trong nhiều văn kiện của Đảng, nhiều văn bản quy phạm
    pháp luật đã ghi nhận nội dung này. Đại hội IV (1976): Đảng viên và tổ chức
    đảng phải là người gương mẫu nhất trong việc chấp hành mọi quyết định của
    Nhà nước, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã
    khẳng định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
    thống ấy Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" 1 . Hội nghị
    lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII: “Đảng là một tổ chức trong
    hệ thống chính trị, nhưng là lực lượng duy nhất lãnh đạo hệ thống ấy . Đảng
    tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể; Đảng hoạt
    động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật” 2 . Đặc biệt, Nghị quyết Đại
    hội IX của Đảng đã khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
    hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
    Đảng". Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
    pháp quyền trong điều kiện mới.
    Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát
    triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân
    dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân
    dân, của dân tộc. Nhà nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng
    pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ
    nghĩa. Hiến pháp nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 quy
    định: “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”, Hiến
    pháp nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Sửa năm 2001) quy
    định: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
    luật”. Đến Đại hội X của Đảng, vấn đề hoạt động của Đảng phải tuân thủ Hiến
    pháp, pháp luật được Đảng khẳng định là một nguyên tắc xây dựng Đảng trong
    điều kiện đảng cầm quyền hiện nay. Văn kiện Đại hội X có ghi: “Ðảng là một tổ
    chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc

    1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb CTQG, H,
    2005, trang 330.
    2 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb.CTQG,
    Hà Nội, 1999, tr.21
    2tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí,
    kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình,
    đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Ðiều lệ Ðảng, giữ mối liên hệ mật thiết
    với nhân dân, Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” 1
    Việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp và pháp luật vừa tạo ra điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Đảng ,
    vừa đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với Đảng. Một mặt, bằng các quy định của
    pháp luật ở những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất,
    công nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và
    xã hội; công nhận sự hoạt động hợp pháp của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng
    viên. Từ sự ghi nhận này, trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức đảng được
    pháp luật bảo vệ, ngăn chặn các hành động chống phá Đảng như vu cáo, cản trở
    hoạt động đúng pháp luật, xâm phạm thân thể đảng viên và tài sản của Đảng; tạo
    điều kiện cho các cấp uỷ, tổ chức đảng tập trung trí tuệ cho việc hoạch định chủ
    trương, đường lối xây dựng, phát triển đất nước, xây dựng nội bộ Đảng trong
    sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, lãnh đạo các tổ chức quần
    chúng xây dựng cơ sở xã hội vững chắc, tạo hậu thuẫn chính trị trong cộng đồng
    nhân dân. Từ đó, tạo điều kiện nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, uy tín
    của Đảng trong xã hội, giúp Đảng giữ vững vị trí đảng cầm quyền đưa đất nước
    phát triển theo con đường định hướng XHCN.
    Mặt khác, là đảng cầm quyền, dù là đảng duy nhất – cũng là một thành
    viên trong cộng đồng, mỗi đảng viên của Đảng là một công dân, chịu sự điều
    chỉnh của pháp luật, bình đẳng với mọi công dân khác, không có đặc quyền, đặc
    lợi nào. Việc ghi nhận Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
    giúp ngăn chặn xu hướng của một đảng duy nhất cầm quyền là lộng quyền và
    lạm quyền, Đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật. Ngăn chặn tình trạng một số
    tổ chức đảng, đảng viên có ý nghĩ không đúng khi cho rằng Đảng là người lãnh
    đạo không bị giới hạn bởi pháp luật. Điều này rất nguy hiểm, làm giảm vai trò,
    uy tín, sức mạnh của Đảng và hiệu lực của Hiến pháp, pháp luật.

    1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng khoá X, Nxb CTQG, Hà Nội, trang 1
    3Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo
    được sự đồng thuận, thống nhất giữa chủ trương, đường lối, nghị quyết của
    Đảng với chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo hệ
    thống chính trị nhưng cũng là thành viên của hệ thống ấy. Tuỳ thuộc vào yêu
    cầu của nhiệm vụ cách mạng, các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng
    có hiệu lực, phạm vi áp dụng khác nhau. Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc,
    nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng được triển khai sâu rộng trong xã hội và có
    hiệu lực như pháp luật. Nhưng khi Đảng giành được chính quyền thì Đảng chỉ
    đưa ra những định hướng chiến lược, những chủ trương để Nhà nước cụ thể hoá
    thành pháp luật. Đối với mỗi đảng viên, Đảng giác ngộ, giáo dục để họ nhận
    thức rõ, là đảng viên không chỉ thực hiện đúng pháp luật mà còn phải thực hiện
    đầy đủ, gương mẫu, đi đầu lôi cuốn nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp
    và pháp luật.
    Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay, nhiều tổ chức đảng, đảng viên nhận thức
    cũng như thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
    pháp luật chưa đầy đủ, nghiêm túc. Không ít cấp uỷ quan niệm, Đảng là cơ quan
    lãnh đạo thì phải tham gia vào mọi việc của Nhà nước cũng như xã hội, Nhà
    nước chỉ là cơ quan chấp hành dẫn đến tình trạng bao biện, làm thay, lấn sân.
    Nơi này, nơi khác vẫn còn tình trạng, tổ chức đảng ra nghị quyết để trực tiếp giải
    quyết những công việc cụ thể, sự vụ mà lẽ ra đó là công việc của các cơ quan
    khác. Trong hoạt động tư pháp, có những vụ án, cấp uỷ đảng cũng tham gia ý
    kiến chỉ đạo cụ thể vào việc điều tra, truy tố, xét xử làm cho các cơ quan tư pháp
    không thực hiện đúng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong đảng
    viên, có cả những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo cao trong Đảng cũng nhầm lẫn
    chức năng, nhiệm vụ của mình khi với tư cách đảng viên của Đảng và tư cách
    cán bộ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, dẫn đến, lấn sân công việc của cá nhân,
    cơ quan khác, và nhiệm vụ của mình không hoàn thành.
    Những hạn chế, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có một
    nguyên nhân rất chủ yếu là, mặc dù quan điểm Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp và pháp luật đã được hình thành, phát triển và được thực hiện từ khá
    4lâu và ở nhiều nơi thuộc các cấp, các ngành, nhưng mới được Đảng ta chính
    thức khẳng định đó là một nguyên tắc xây dựng Đảng, một nguyên tắc tổ chức
    và hoạt động của Đảng. Việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc
    này còn chậm trễ và kết quả thu được chưa nhiều nên trong hoạt động thực tiễn,
    nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Bởi vậy, việc
    nghiên cứu sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp thực hiện tốt
    nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ở Việt
    Nam giai đoạn hiện nay” là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    2.1. Ở trong nước: Vấn đề Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp,
    pháp luật đã được đề cập trong nhiều Văn kiện của Đảng, Nhà nước. Tuy chưa
    nhiều nhưng gần đây đã có một số công trình khoa học của các nhà hoạt động thực
    tiễn và nghiên cứu lý luận nghiên cứu vấn đề này. Kết quả nghiên cứu đã được
    đăng tảI trên các sách, báo, tạp chí:
    * Các văn kiện của Đảng, Nhà nước
    - Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
    quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb ST, HN, 1991: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính
    trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân
    dân, chịu sự giám sát cña nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
    pháp luật” (tr.20).
    - Về các bản Hiến pháp. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không
    chỉ có cơ sở đạo lý sâu sắc mà còn có cơ sở pháp lý vững chắc. Đảng Cộng sản
    Việt Nam lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám
    năm 1945 lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng là
    người sáng lập ra Nhà nước và lãnh đạo Nhà nước là điều tất nhiên và hợp pháp.
    Tuy các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959 không trực tiếp thể chế hoá
    vai trò cầm quyền của Đảng, nhưng thông qua việc xác lập địa vị pháp lý của
    nguyên thủ quốc gia đã gián tiếp xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo
    cña Đảng được đảm bảo bằng người đứng đầu Đảng đồng thời là người đứng
    đầu bộ máy nhà nước.Thông qua đã mà đường lối, chính sách và quan điểm của
    Đảng được thực hiện và trở thành hiện thực trong tổ chức và hoạt động của bộ
    máy nhà nước.
    5Đến các bản Hiến pháp năm 1980, năm 1992 vị trí cầm quyền cña Đảng
    đã được thể chế hoá rõ. Tại điều 4 của Hiến pháp 1992 có quy định: “Đảng
    Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
    trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cña cả dân
    tộc, theo chủ nghiã Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
    đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
    pháp và pháp luật”.
    Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá đầy đủ và toàn diện đường lối của Đảng
    về xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Do vậy có thể thấy rằng dù
    được quy định một cách gián tiếp hay trực tiếp, vai trò lãnh đạo và vị trí cầm
    quyền cña Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có cơ sở pháp lý vững chắc.
    * Sách tham khảo
    - Nguyễn Đăng Dung, Bùi Xuân Đức, Luật Hiến pháp của các nước tư
    bản, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1994. Trong công trình này có một chương xem
    xét về sự xuất hiện của các đảng phái chính trị ở phương Tây, sự phân lo¹i và cơ
    cấu tổ chức của nó cũng như xem xét về vai trò của các đảng phái trong tổ chức
    và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản.
    - Khoa Luật, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Luật Nhà nước, Hà Nội, 1994.
    Giáo trình này đã giành một nội dung cơ bản để phân tích chế định Đảng lãnh
    đạo Nhà nước, đồng thời khẳng định việc quy định mọi tổ chức của Đảng hoạt
    động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là hết sức cần thiết. Quy định này
    phủ nhận quan điểm của một số người cho rằng “Đảng cầm quyền” có nghiã là
    Đảng quyết định trực tiếp mọi việc của Nhà nước, cơ quan đảng là cơ quan cấp
    trên của nhà nước. Muốn xây dựng một xã hội có trật tự, pháp luật, có pháp chế
    thì các tổ chức của Đảng, mọi đảng viên phải gương mẫu chấp hành Hiến pháp
    và pháp luật.
    - Nguyễn Văn Thảo (chủ biên), Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
    Nam, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, HN, 1995.
    Trong công trình này nhóm các tác giả có đề cập đến tính tất yếu tiến tới
    một thể chế Nhà nước pháp quyền có cơ sở để xác định được rõ ràng vị trí pháp
    lý và phương thức lãnh đạo hợp hiến của Đảng, với cơ chế để nhân dân có thể
    thực hiện quyền giám sát đối với Đảng. Vai trò chi phối của Đảng cầm quyền
    không chỉ được đảm bảo bởi đa số trong cơ quan quyền lực khi biểu quyết, mà
    6còn được thực hiện bằng một số quyền hạn hợp hiến dành cho Đảng cầm quyền
    được chính thức quy định trong Hiến pháp như một nội dung của thể chế.
    Những quyền hạn đặc biệt này có được là do tương quan thế lực chính trị
    của Đảng trong xã hội (nhân dân công nhận) và được thể chế hoá, chứ không
    phải là áp đặt hoặc vận dụng tuỳ tiện. Bên cạnh đó một số tập quán trong quan
    hệ giữa Đảng và Nhà nước không phù hợp với phương thức lãnh đạo mới cần
    được khắc phục.
    - GS. Nguyễn Đức Bình, GS. Trần Ngọc Hiên (chủ biên), Đổi mới,
    tăng cương hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới, Nxb CTQG, H,
    1999 có một tiết bàn về Đảng lãnh đạo Nhà nước và đề cập đến Đảng hoạt động
    trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
    - PGS, TS. Nguyễn Đăng Dung, Hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb
    Giao thông vận tải, HN, 2002. Tác giả có khẳng định vai trò to lớn của các đảng
    chính trị trong đời sống chính trị của các nước trên thế giới. Tuy nhiên ở các
    nước tư bản vị trí vai trò của các Đảng chính trị không được ghi nhận một cách
    cụ thể trong các Hiến pháp. Trong khi đó vị trí của các Đảng Cộng sản lại được
    quy định và đó chính là một một thành công về mặt lập Hiến. Từ quy định có
    tính chất pháp lý tối cao này, chúng ta có thể quy kết mọi hành vi gây hại đến
    thẩm quyền lãnh đạo cña Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội.
    - Nguyễn Văn Yểu, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên), Xây dựng nhà
    nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính
    trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Các tác giả đã phân tích sâu sắc, toàn diện cả về lý
    luận và thực tiễn vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt
    Nam trong thời kỳ đổi mới, trong đó đã luận giải về sự cần thiết và yêu cầu của
    việc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
    - PGS, TS. Lê Minh Thông (chủ biên), Tổ chức và hoạt động của hệ
    thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb
    CTQG, HN, 2007. Trong công trình này các tác giả có phân tích tình trạng sự
    lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn chưa được thể chế hoá cụ
    thể; chế độ trách nhiệm giữa các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, các
    đoàn thể quần chúng cũng chưa được xác định rõ ràng. Do vậy dường như các tổ
    chức đảng thực hiện quyền lãnh đạo, nhưng lại không chịu trách nhiệm về các
    hậu quả lãnh đạo. Chính những điều đấy gây ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò lãnh
    7đạo của Đảng, làm giảm hiệu quả các nỗ lực đổi mới phương thức lãnh đạo cña
    Đảng trong bối cảnh hiện nay.
    - PGS, TS. Tô Huy Rứa, Mô hình tổ và hoạt động của hệ thống chính trị
    một số nước trên thế giới, Nxb CTQG, HN, 2008.
    Công trình này có đề cập đến vấn đề các Đảng chính trị ở một số nước
    trên thế giói, đặc biệt trong thế giói tư sản chỉ có thể phát huy được vai trò của
    mình thông qua nghị trường với các chế định của Luật Bầu cử. Tại đây sự liên
    quan giữa các đảng phái và cấu trúc quyền lực nhà nưóc là khá rõ ràng. Vì vậy,
    các nhà hoạt động đảng chuyên nghiệp phải nắm vững các công đoạn, kỹ năng
    và kinh nghiệm của hoạt động nghị trường và do đó đặc biệt phải am hiểu về hệ
    thống pháp luật.
    * Đề tài khoa học
    - PGS. Vũ Hữu Ngoạn (chủ nhiệm), đề tài cấp Nhà nước năm 1999, Đặc
    điểm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị - Mối
    quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, đã bàn đến
    vấn đề Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
    - TS. Nguyễn Văn Hoà (Chủ nhiệm), Nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ
    của Đảng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, KX 03.03, HN, 2005. Trong
    công trình này có đề cập đến vấn đề cần phải đặt ra đặt ra một cơ chế hãm, hạn
    chế chủ nghĩa cực quyền có thể nảy sinh trong các ban lãnh đạo, đặc biệt là ban
    lãnh đạo cao nhất như Bộ Chính trị, Ban Bí thư và những chức danh như Tổng
    bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch Quốc hội, là những người
    nắm giữ vị trí cao nhất trong bộ máy Đảng và Nhà nước, tiêu biểu cho trí tuệ, lư-
    ơng tâm của Đảng và nhân dân, đòi hỏi phải có cơ chế giám sát chặt chẽ,
    nghiêm minh.
    - GS, TS. Nguyễn Thị Doan (Chủ nhiệm), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ
    luật trong Đảng nhằm tăng cường sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ cách
    mạng mới, KX 03.07, HN, 2005. Đề tài đã phân tích vấn đề Đảng lãnh đạo cả
    hệ thống chính trị mà không được giám sát chặt chẽ, rất dễ lộng quyền, lạm
    quyền và tất nhiên sẽ dẫn đến các thiếu sót, tiêu cực trên, làm giảm lòng tin của
    nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Đó là những nguy cơ bên trong làm suy
    yếu, thậm chí tan rã Đảng. Đây là điều cảnh báo cho toàn Đảng thấy rõ và kiên
    quyết tìm mọi biện pháp khắc phục cho bằng được. Vì vậy, giám sát hoạt động
    8của tổ chức đảng và đảng viên là rất bức thiết, nó xuất phát từ đòi hỏi khách
    quan của công tác xây dựng Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, bảo
    đảm cho Đảng ta, trước hết là các cơ quan lãnh đạo và những người lãnh đạo
    của Đảng luôn kiên định về chính trị, vững vàng về đường lối, không chệch
    hướng, có phẩm chất cách mạng tốt đẹp, ngăn ngừa mọi sự thoái hoá về tư
    tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Do đó, trong giai đoạn cách mạng mới cần
    phải tăng cường công tác giám sát và kiểm tra trong Đảng.
    - GS, TS. Phạm Ngọc Quang (Chủ nhiệm), Phương thức lãnh đạo của
    Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN,
    của dân, do dân, vì dân. KX03.08, Hà Nội 2005. Theo các tác giả, trong Nhà
    nước pháp quyền, việc quản lý mọi mặt đời sống xã hội phải bằng pháp luật và
    theo pháp luật. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước là
    chủ yếu. Đảng lãnh đạo Nhà nước đồng thời phải hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp và pháp luật, tuân thủ pháp luật; Đảng không thể tự đặt mình trên Nhà
    nước, trên pháp luật. Trong điều kiện đó, phương thức lãnh đạo của Đảng cần thay
    đổi như thế nào để bảo đảm mọi quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế, văn hoá
    - xã hội, an ninh - quốc phòng . được thể chế hoá một cách đúng đắn và triển khai
    thực hiện có hiệu quả bằng Nhà nước và sự nỗ lực của toàn dân tộc? Tuy đây
    không phải một vấn đề hoàn toàn mới, nhưng việc giải đáp đúng đắn vấn đề đó vẫn
    đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ của các nhà chính trị, các nhà lý luận nước ta.
    - Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.10.04: “Vị trí cầm quyền và vai
    trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định
    hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và hội nhập
    kinh tế quốc tế” do GS, TS. Đỗ Hoài Nam làm chủ nhiệm đã đề cập một số vấn đề
    liên quan đến đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
    * Báo, tạp chí
    - PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt, Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây
    dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số
    6/2006. Tác giả đã phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong
    xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác giả cho rằng
    Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, làm cho mọi hoạt động
    của chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối của đảng đó, phù hợp
    với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện.
    9Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của mình khi xây dựng được Nhà
    nước vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và có hiệu quả cao, tôn trọng và hết
    lòng phục vụ nhân dân. Nhà nước lãnh đạo xã hội thông qua việc hoạch định kế
    hoạch, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, ®ó là tiếp tục sự lãnh đạo của
    Đảng dưới hình thức nhà nước. Cho nên, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
    Nhà nước vừa thống nhất, vừa khác biệt; tách Đảng khỏi Nhà nước, Đảng làm
    thay Nhà nước đều là sai lầm cực đoan như nhau. Trong một thời gian dài, các
    nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, ít quan tâm nghiên cứu giải quyết
    mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, ít chú ý phân biệt giữa Đảng và Nhà
    nước. Từ đó, trong thực tiễn thường xảy ra tình trạng lẫn lộn, nhập cục Đảng với
    Nhà nước. Hiện tượng "Đảng trị", Đảng "ôm quyền", lấn át chính quyền nhà
    nước xảy ra khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ là lực lượng lãnh
    đạo, Đảng có xu hướng bị "nhà nước hóa" thành cơ quan quyền lực, trực tiếp
    làm chức năng của Nhà nước. Sự lẫn lộn nhập cục một cách chủ quan giữa chức
    năng của Đảng và chức năng của Nhà nước đã làm cho Đảng yếu, Nhà nước non
    kém, Đảng không phát huy được chức năng vốn có của mình, còn Nhà nước rơi
    vào tình trạng thụ động, quan liêu, xa rời thực tế, quyền lợi của nhân dân trở
    thành hình thức. Vì thế, trong quá trình đổi mới, để Nhà nước thực sự là quyền
    lực của dân, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức dân chủ. Đảng cần
    hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tức là vừa phải trọng dân,
    vừa phải trọng pháp. Con đường đúng đắn là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
    hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời Đảng hoạt
    động và thực hiện sự lãnh đạo phù hợp với tinh thần pháp luật, trong khuôn khổ
    pháp luật, không đứng trên Nhà nước, xã hội công dân và luật pháp.
    - GS. Đỗ Quốc Sam, Bàn về lãnh đạo và quản lý trong công cuộc cải cách
    hành chính, Tạp chí Cộng sản (điện tử) Số 11 (131) năm 2007. Từ việc bàn về
    lãnh đạo và quản lý trong công cuộc cải cách hành chính, tác giả cho rằng để
    xây dựng thể chế tổng thể Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ,
    quan trọng trước hết là giải quyết đúng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
    nhân dân. Phải xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó các chủ thể Đảng, Nhà
    nước, nhân dân đều hoạt động trong phạm vi cho phép của Hiến pháp và pháp
    luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Muốn vậy, trước hết cần thể chế hóa
    (cả về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, về cơ cấu tổ chức và về cơ chế vận
    10hành) vai trò của mỗi chủ thể trong hệ thống cũng như các mối quan hệ giữa các
    chủ thể đó. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế và cơ cấu giám sát lẫn nhau giữa ba
    chủ thể, nhất là giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước.
    Trong nội bộ mỗi chủ thể lại có cơ chế và cơ cấu kiểm tra riêng.
    - Báo Người đại biểu nhân dân, Để dân có thể “sống và làm việc theo
    Hiến pháp và pháp luật”, ra ngày 11/07/2007. Tác giả cho rằng luật pháp là sản
    phẩm xã hội của con người, là thành tựu của trí tuệ và trình độ văn minh mà con
    người đạt được nhằm làm cho quyền của mình được thực hiện. Khi mọi người
    trong xã hội, trước hết là người cầm quyền, biết sống và làm việc theo Hiến
    pháp và Pháp luật thì lúc đó mới có điều kiện để đem lại tự do cho con người và
    thực hiện một xã hội dân chủ và công bằng. Thể chế chính trị của nước ta được
    tạo dựng trên một thực tế lịch sử của một đảng lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản
    Việt Nam. Nghị quyết của Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Phải xây dựng hệ
    thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở các ngành các cấp. Đảng hoạt
    động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không làm thay công việc của
    các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội X
    nhắc lại Điều 4 của Hiến pháp 1992, Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà nước và
    xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
    luật”. Nhắc lại vì đó là một đòi hỏi của bước phát triển mới của cũng chính thực
    tế lịch sử từng xác lập vai trò của Đảng, bước phát triển của dân trí và nhu cầu
    bức xúc của việc đẩy tới tiến trình dân chủ hóa xã hội trong bối cảnh mới của sự
    nghiệp phát triển đất nước. Nhắc lại, để chấn chỉnh những sai lầm của không ít
    bộ phận của tổ chức, cấp ủy Đảng và cá nhân đảng viên đã không nắm vững nội
    dung và chức năng lãnh đạo, đã biến lãnh đạo thành cai trị, làm thay chức năng
    của Nhà nước. Mà như vậy thì vô tình đã vi phạm Hiến pháp, cũng là vi phạm
    Điều lệ và Cương lĩnh của Đảng.
    - Đào Trí Úc, Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
    hoạt động của hệ thống chính trị, Tạp chí Cộng sản điện tử, cập nhật ngày
    26/9/2007.
    Tác giả cho rằng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
    hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới
    và chỉnh đốn Đảng nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp quyền
    xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ở tầm cao nhất,
    11Hiến pháp ghi nhận: “Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức đảng đều
    hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Đây vừa là vấn đề vị trí,
    vai trò lịch sử, lại vừa là vấn đề quan hệ chính trị - pháp lý. Việc xử lý cơ chế
    “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” có vị trí hết sức quan
    trọng. Đặc điểm lớn nhất của chế độ pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
    Nhà nước pháp quyền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Điều đó có nghĩa,
    Đảng có vị trí lãnh đạo và cầm quyền hợp hiến và hợp pháp với đầy đủ các
    quyền lãnh đạo và trách nhiệm chính trị. Nhà nước nào pháp luật đó. Có pháp
    luật là cần thiết nhưng như thế chưa đủ nói lên tính pháp quyền của chế độ đó.
    Chỉ khi nào Nhà nước, các thiết chế chính trị cầm quyền, mặc dù là người làm ra
    chính sách và pháp luật, nhưng không đứng trên pháp luật mà phải chịu ràng
    buộc bởi pháp luật, chịu trách nhiệm pháp lý trước nhân dân, thì khi đó mới có
    chế độ pháp quyền. Trong một chế độ pháp quyền, mọi tổ chức, cá nhân, trong
    đó có Đảng, Nhà nước, đều phải chịu sự ràng buộc của pháp luật, chịu trách
    nhiệm pháp lý về các quyết định và hành động của mình. Vì vậy, Điều 4 của
    Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi rõ:
    “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
    biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
    dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng
    lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp và pháp luật”.
    - Lê Đức Bình-Phạm Ngọc Quang, Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
    đạo của Đảng đối với Nhà nước, Tạp chí Cộng sản số 19 (tháng 7-2003).
    Bài viết đã phân tích sâu sắc, hệ thống yêu cầu đổi mới phương thức lãnh
    đạo của Đảng đối với Nhà nước. Khi phân tích mối quan hệ giữa Đảng với Nhà
    nước, giữa nghị quyết của Đảng với nghị quyết của Quốc hội, các tác giả đã chỉ
    ra trình tự tất yếu của quá trình thể chế hoá nghị quyết của Đảng thành nghị
    quyết của Quốc hội và khẳng định đó là Đảng thực thi chức năng lãnh đạo của
    mình đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Các tác giả lưu ý Đảng là cơ quan lãnh
    đạo chứ không phải cơ quan quyền lực hành chính; Đảng không chỉ thị trực tiếp
    cho các cơ quan nhà nước và nhân dân thực hiện; Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp và pháp luật; tránh tình trạng cấp ủy can thiệp sâu vào công việc thuộc
    12chức năng Nhà nước, bao biện, lấn sân, hay cơ quan nhà nước ỷ lại, dựa dẫm vào
    cấp ủy, việc gì cũng xin chỉ thị cấp ủy, không dám chịu trách nhiệm.
    2.2. Ở nước ngoài:
    - Ngô Tư Nghệ, Lý Luyện Trung, Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh đạo của
    Đảng, Nxb CTQG, HN, 1999.
    Trong công trình này, các tác giả Trung Quốc có đề cập về việc nghiêm
    khắc quản lý Đảng, chỉnh đốn tác phong Đảng, trừng trị hủ bại. Muốn thực hiện
    điều đó thành công thì một trong những giải pháp đưîc đề xuất là phải dựa vào
    pháp chế để xây liêm chính. Theo các tác giả, giáo dục rất quan trọng nhưng
    không phải là vạn năng, do vậy cần phải vận dụng pháp luật và chế độ để trừng
    trị hủ bại và thúc đẩy liêm chính trong Đảng.
    - Hạ Quốc Cường - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương,
    Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Không ngừng
    nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cương năng lực chống
    tha hoá, phòng biến chất và chống rủi ro, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản
    Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng cầm quyền – kinh
    nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb CTQG, H, 2004.
    Trong đó có bàn đến Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
    - Đặc biệt là Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nghiên cứu về quy luật cầm
    quyền của các chính đảng tư sản và chỉ rõ các quy luật liên quan đến việc Đảng
    hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
    + Chính đảng cầm quyền phải đáp ứng mong muốn của đa số người trong xã hội.
    + Hoạt động của chính đảng cầm quyền phải phù hợp với yêu cầu pháp chế.
    + Quyền lực của chính đảng cầm quyền phải được giám sát có hiệu quả.
    - Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nghiên cứu quy luật cầm quyền của
    các Đảng Cộng sản và chỉ ra những quy luật liên quan đến Đảng hoạt động trong
    khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
    + Đảng Cộng sản cầm quyền phải xử lý tốt mối quan hệ giữa sự lãnh đạo
    của Đảng với việc cầm quyền của Đảng.
    + Đảng Cộng sản cầm quyền phải quản lý đất nước bằng pháp luật, đầu
    tiên là Đảng phải hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
    - Tổng kết 55 năm cầm quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rút ra 6 bài
    học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học về Đảng hoạt động trong phạm vi Hiến
    13pháp và pháp luật. Đảng phải kiên trì cầm quyền khoa học, cầm quyền dân chủ,
    cầm quyền theo pháp luật, không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo và
    phương thức cầm quyền của Đảng.
    Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nguyên tắc Đảng hoạt động
    trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật nêu trên đã đề cập nhiều nội dung với các
    góc độ khác nhau, có những đóng góp quan trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy
    nhiên, ở phương diện thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp, pháp luật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
    xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, các công trình đó cũng còn một
    số hạn chế như:
    - Hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập ở trên mới chỉ bàn tới vấn đề
    Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật ở một vài góc độ trong sự
    quan tâm của một vấn đề khác, chưa tập trung nghiên cứu chuyên biệt về nguyên
    tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, do đó chưa trực tiếp
    đi sâu luận giải một cách hệ thống về mặt lý luận của nguyên tắc, như: cơ sở lý
    luận, thực tiễn, nội dung, bản chất, vai trò của nguyên tắc Đảng hoạt động trong
    khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
    - Các công trình nghiên cứu về vấn đề Đảng hoạt động trong khuôn khổ
    Hiến pháp, pháp luật phần nhiều đặt trong mối quan hệ Đảng với Nhà nước,
    trong góc độ phương thức lãnh đạo của Đảng mà chưa đặt trong bối cảnh thực
    hiện nguyên tắc đó trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
    xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, vÌ vậy mà chưa làm rõ được yêu
    cầu, thực trạng thực hiện nguyên tắc, chưa đề xuất được phương hướng, giải pháp
    thực hiện nguyên tắc trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
    xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.
    Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan trên đây, hy vọng
    sù nghiên cứu của chúng tôi sẽ kế thừa những thành tựu của các công trình
    nghiên cứu trước, cung cấp thêm một số hệ thống luận cứ để làm rõ cơ sở lý
    luận, thực tiễn, nội dung, bản chất, vai trò của nguyên tắc Đảng hoạt động trong
    khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; đánh giá đúng thực trạng thực hiện nguyên tắc
    Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, đề xuất những giải pháp
    cụ thể nhằm thực hiện tốt nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
    14pháp, pháp luật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
    chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
    3. Nhiệm vụ của đề tài
    - Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, nội dung, bản chất, vai trò của
    nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật trong điều
    kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai
    đoạn hiện nay.
    - Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động
    trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật trong thời gian qua, rút ra nguyên nhân
    của những ưu điểm và khuyết điểm, những kinh nghiệm thực tiễn.
    Thứ ba, đề xuất phương hướng, những giải pháp khả thi và những kiến
    nghị cụ thể để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
    pháp, pháp luật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
    chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng: đề tài nghiên cứu thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong
    khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật của các tổ chức đảng và đảng viên.
    - Phạm vi: trong tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ
    1986 đến nay.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
    chủ nghĩa Mác – Lênin, đề tài sẽ sử dụng các phương pháp chủ yếu sau để
    nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn:
    - Phương pháp lịch sử và lôgíc được sử dụng để tổng kết thực tiễn và
    khái quát lý luận về thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
    pháp, pháp luật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
    hội chủ nghĩa ở Việt Nam .
    - Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng rộng rãi trong quá
    trình nghiên cứu, nhất là để xử lý, đánh giá các nguồn tài liệu có liên quan đến
    đề tài thu thập được.
    - Phương pháp khảo sát thực tế để trực tiếp thu thập thông tin, tài liệu
    trong trong thực tiễn.
    - Phương pháp điều tra xã hội học để thu thập những thông tin có tính
    định lượng, tạo cơ sở dữ liệu tin cậy cho các phân tích, đánh giá.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...