Tài liệu Thực hiện dự toán thu – chi Ngân sách tỉnh Đồng Nai

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Thực hiện dự toán thu – chi Ngân sách tỉnh Đồng Nai

    Chương 1: Tổng quan về NSNN.
    1. Khái niệm, bản chất, vai tṛ và đặc điểm của NSNN.
    1.1 Khái niệm và bản chất của NSNN.
    1.1.1 Khái niệm về NSNN.
    Thuật ngữ ngân sách (budget) bắt nguồn từ tiếng Anh có nghĩa là cái ví, cái túi . Tuy nhiên trong đời sống kinh tế, thuật ngữ này đă thoát ly ư nghĩa ban đầu và mang nội dung hoàn toàn mới. Cho tới ngày nay, khi bàn về khái niệm ngân sách cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
    Trong cuốn “Tài chính công” nổi tiếng của ḿnh, tác giả Philip E.Taylor đă định nghĩa rằng “Ngân sách là chương tŕnh tài chính chính yếu của Chính phủ. Tài liệu này tập trung các dữ liệu thu và chi trong khoảng thời gian của tài khoá, bao hàm các chương tŕnh hoạt động phải thực hiện và các phương tiện tài trợ các hoạt động ấy”.
    Nước Pháp có từ điển Bách Khoa toàn thư về kinh tế đă định nghĩa “Ngân sách là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó các nghiệp vụ tài chính (thu, chi) của một tổ chức công (Nhà nước, chính quyền, địa phương, đơn vị công) hoặc tư (doanh nghiệp, hiệp hội .) được dự kiến và cho phép.”
    Viện ngiên cứu tài chính cho ra đời quyển từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng (1996) th́ lại cho rằng: “Ngân sách được hiểu là dự toán và thực hiện mọi khoản thu nhập (tiền thu vào) và chi tiêu (tiền xuất ra) của bất kỳ một cơ quan, xí nghiệp, tổ chức, gia đ́nh hoặc cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
    Giáo tŕnh Luật NSNN của Nhà xuất bản công an nhân dân Hà Nội (2007) định nghĩa NSNN dựa trên hai phương diện:
    - Về phương diện kinh tế th́ NSNN là một phạm trù kinh tế học gồm 2 yếu tố:
    + NSNN là một bản dự toán thu và chi tiền tệ của quốc gia, là một bản dự toán được Quốc Hội thông qua trước khi Chính phủ đem ra thi hành trên thực tế. Và Quốc Hội c̣n là người giám sát Chính phủ trong quá tŕnh thi hành ngân sách.
    + NSNN chỉ có giá trị thực hiện trong thời hạn một năm, được gọi là năm ngân sách hay năm tài khoá, và được tính từ ngày 01 tháng 01 cho đến ngày 31 tháng 12 hàng năm.
    (Nếu xét về khía cạnh kỹ thuật th́ mỗi bản dự toán NSNN chỉ được dùng cho một năm và phải được xây dựng, thiết kế phù hợp với t́nh h́nh kinh tế, chính trị, xă hội của năm đó nên đ̣i hỏi phải chi tiết, khoa học, khách quan, chính xác trên cơ sở thu thập và xử lư tốt các thông tin về kinh tế - chính trị - xă hội trong nước và quốc tế)
    - Về phương diện pháp lư th́ NSNN c̣n là một khái niệm pháp lư, gồm hai khía cạnh:
    + NSNN là đạo luật được cơ quan Lập Pháp làm ra theo một tŕnh tự riêng không hoàn toàn giống với tŕnh tự lập pháp thông thường.
    + NSNN là một đạo luật ngân sách thường niên (có nghĩa là bản dự toán thu chi các khoản tiền tệ của quốc gia đă được Quốc Hội biểu quyết thông qua và bao gồm cả văn bản nghị quyết của Quốc Hội về việc thi hành bản dự toán ngân sách đó.
    Nhưng tại Điều 1 - Luật NSNN được Quốc Hội nước cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 16/12/2002 th́ “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đă được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước”.

    1.1.2 Bản chất của NSNN.
    - NSNN mang tính áp đặt, bắt buộc các chủ thể kinh tế xă hội có liên quan phải tuân thủ: Nhà nước ban hành các luật thuế, các quy định pháp lư về các khoản thu trong nước, quy định chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu ngân sách của Nhà nước trong một năm.
    - NSNN là một bản dự toán thu – chi được các đơn vị có trách nhiệm lập và đề ra các thông số quan trọng có liên quan đến chính sách mà Chính phủ phải thực hiện.
    - Bản chất của NSNN do bản chất của giai cấp thống trị quyết định.
    - Hoạt động của NSNN thể hiện mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước với một bên là xă hội (tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc lĩnh vực phi sản xuất, các hộ gia đ́nh và các tầng lớp dân cư, nước ngoài).
    - Về h́nh thức vật chất biểu hiện th́ NSNN là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước.
    - Về pháp lư th́ NSNN là một kế hoạch tài chính cơ bản của quốc gia. Hay nói cách khác NSNN là một đạo luật đặc biệt do Quốc Hội ban hành để cho phép Chính phủ thực hiện trong thời hạn xác định.
    - Về phương diện quản lư vốn: NSNN là một bảng dự toán thu – chi của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.

    1.2 Đặc điểm của NSNN.
    NSNN là một kế hoạch tài chính được Quốc Hội biểu quyết thông qua hằng năm trước khi thi hành. Việc thiết lập NSNN không chỉ là vấn đề kĩ thuật nghiệp vụ kinh tế (lập dự toán các khoản thu và chi định thực hiện trong một năm) mà c̣n là vấn đề mang tính kĩ thuật – pháp lư (nghĩa là phải trải qua giai đoạn xem xét), biểu quyết thông qua tại Quốc Hội giống như việc ban hành một đạo luật để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lư nhất định cho các chủ thể tham gia vào hoạt động ngân sách. Do đó NSNN mang tính áp đặt và bắt buộc các chủ thể kinh tế - xă hội có liên quan phải tuân thủ.
    NSNN là một bản dự toán thu – chi của toàn thể quốc gia. Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lập và đề ra các thông số quan trọng có liên quan đến chính sách mà Chính phủ phải thực hiện trong năm tài khoá tiếp theo (dựa trên cơ sở dự báo t́nh h́nh kinh tế, chính trị xă hội trong nước và thế giới) dưới sự giám sát của Quốc Hội. Sự giám sát thường xuyên của Quốc Hội đối với Chính phủ trong lĩnh vực này cũng là phương cách để củng cố và đề cao tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính nhà nước, góp phần quản trị tốt nền tài chính công. Trong đó, dân chúng đóng vai tṛ quyết định. Thu – chi NSNN là cơ sở thực hiện chính sách của Chính phủ. Chính sách nào mà không được dự kiến trong NSNN th́ sẽ không được thực hiện. Chính v́ lẽ đó, việc thông qua NSNN là một sự kiện chính trị quan trọng, nó biểu hiện sự nhất trí trong Quốc Hội về chính sách của Nhà nước. Quốc Hội mà không thông qua NSNN th́ điều đó thể hiện sự thất bại của Chính Phủ về chính sách, và có thể gây ra mâu thuẫn về chính trị.
    NSNN là một công cụ quản lư, hay nói cách khác là một đạo luật. NSNN đưa ra danh mục các khoản thu mà Chính Phủ chỉ được phép thu, và danh mục các khoản chi tiêu trong khuôn khổ NSNN được Quốc Hội phê duyệt. Đặc điểm này cho thấy NSNN là công cụ giúp Quốc Hội quản lư và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu, thu nhập của Chính Phủ trong mỗi năm tài khoá, nhằm bảo đảm quyền lợi cho toàn thể dân chúng. Việc chuyển hoá bản dự toán NSNN thành đạo luật c̣n làm cho bản dự toán thu – chi ngân sách có thể thực hiện dễ dàng hơn trong thực tế.
    NSNN được thiết lập và thực thi hoàn toàn v́ mục tiêu mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng. Lợi ích chung là yếu tố ảnh hưởng mang tính quyết định đến việc tiến hành các nghiệp vụ thu – chi ngân sách của Chính Phủ mà ở đó Chính Phủ luôn t́m cách thoả măn tối đa các các nhiệm vụ chi đă được hoạch định và thông qua bởi Quốc Hội. Đôi khi, v́ thoả măn lợi ích chung của toàn thể quốc gia mà Chính Phủ buộc phải tiến hành những nhiệm vụ chi không chắc chắn đem lại một lợi ích cụ thể nào cho riêng ḿnh, như trợ cấp cho nhân dân các vùng bị thiên tai, dịch bệnh; hay việc tài trợ cho các doanh nghiệp trong nước bằng việc trợ giá nhằm bảo hộ, phục hồi một ngành sản xuất quan trọng nào đó của đất nước; hoặc có thể là xây dựng các công tŕnh công cộng phục vụ cho nhu cầu giải trí của nhân dân mà không thu phí .
    NSNN luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp và hành pháp trong quá tŕnh xây dựng và thực hiện ngân sách. Mối tương quan này thường nghiêng về phía cơ quan lập pháp. Tuy nhiên, trong thực tiễn đôi khi sự giảm sút vai tṛ của cơ quan lập pháp trong thời điểm nào đó sẽ khiến mối tương quan quyền lực giữa hai cơ quan này có xu hướng nghiêng về phía cơ quan hành pháp. Khi đó, nếu cơ quan hành pháp không biết tự kiềm chế để làm tốt bổn phận của người thừa hành của cơ quan lập pháp th́ có thể khiến cho việc quản trị nền tài chính công trở nên kém dân chủ và thiếu minh bạch hơn.

    1.3 Vai tṛ của NSNN.
    Lịch sử h́nh thành và phát triển của định chế NSNN trong nhiều thập kỷ qua đă chứng minh NSNN tồn tại trong mọi nền kinh tế có sản xuất hàng hoá, không phân biệt đó là nền kinh tế tập trung hay nền kinh tế thị trường. Sự tồn tại và phát triển không ngừng của định chế NSNN cho tới ngày nay đă chứng tỏ vai tṛ không thể thiếu của nó trong đời sống xă hội và thế giới đương đại. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như ngày nay.

    1.3.1 Vai tṛ của NSNN trong nền kinh tế thị trường.
    NSNN là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hoá xă hội, quốc pḥng an ninh và sự hoạt động bộ máy của Nhà nước . Sự hoạt động của Nhà nước luôn đ̣i hỏi phải có những nguồn tài chính để đảm bảo tiêu dùng cho những nhu cầu thiết yếu và lớn lao. Thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác là nguồn thu chủ yếu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu này. Đây là vai tṛ lịch sử của NSNN luôn tồn tại cùng với sự phát triển của Nhà nước.
    NSNN c̣n là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xă hội của Nhà nước. Để phát triển kinh tế bền vững, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, chống độc quyền . trong nền kinh tế thị trường như hiện nay th́ vai tṛ của NSNN lại càng quan trọng hơn.
    - Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những trường hợp cấp thiết, đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp cũng như sự tăng trưởng kinh tế đất nước, và đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu kinh tế mới tốt hơn.
    - Thông qua công cụ chi ngân sách, nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, h́nh thành các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề then chốt (có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế đất nước), trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự h́nh thành và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
    - Huy động nguồn tài chính cho ngân sách bằng công cụ thuế, NSNN đảm bảo thực hiện vai tṛ định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.Đây là vai tṛ truyền thống của NSNN trong mọi mô h́nh kinh tế, nó gắn chặt với các chi phí của nhà nước trong quá tŕnh tồn tại và thực hiện nhiệm vụ, chức năng của ḿnh. Mối quan hệ giữa ngân sách và nhà nước được Các Mác tổng kết như sau: “Sức mạnh chuyên chính của nhà nước được quyết định bởi ngân sách và ngược lại”.
    - Vay nợ trong nước, ngoài nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng các nguồn vay nợ của nhà nước cũng là một vấn đề cần phải xem xét thận trọng khi quyết định thực hiện các biện pháp huy động tiền vay.Chính phủ thường phát hành trái phiếu ngắn hạn để bù đắp bội chi góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Phát hành trái phiếu trung, dài hạn nhằm huy động nguồn vốn cho chi đầu tư phát triển. Nếu sử dụng không khéo chính sách này sẽ dễ dẫn tới nguuy c khủng hoảng nợ công.
    - Hay dùng NSNN chi cho giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, chi tài trợ để cung ứng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước cũng là một giải pháp được nhà nước sử dụng để quản lư và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
    NSNN c̣n có vai tṛ quan trọng trong công tác ổn định giá cả, thị trường, kiềm chế và kiểm soát lạm phát.
    - Thắt chặt hay nới lỏng chính sách thuế, tiền tệ đều có tác động mạnh mẽ đến cung cầu xă hội:
    + Tỷ trọng huy động NSNN dưới các h́nh thức thuế, phí, lệ phí, phát hành trái phiếu so với GDP và GNP chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước làm cho sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư trong dân cư giảm xuống, cầu về hàng hoá, dịch vụ giảm. Nhưng NSNN lại có điều kiện để tăng cầu với quy mô lớn, từ đó sẽ kích thích tăng cung.
    + Ngược lại, nếu tỷ trọng huy động NSNN trên GDP, GNP thấp sẽ làm cho nguồn vốn đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, kích thích tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ, nhưng NSNN lại không có điều kiện tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư phát triển.
    + Chính Phủ luôn phải thường xuyên kiểm tra, rà soát lại chính sách tiền tệ của ḿnh trên mọi phương diện để đảm bảo có sự hợp lư, phù hợp với t́nh h́nh kinh tế, hoàn cảnh của đất nước hiện tại. Một chính sách tiền tệ sai lệch có thể dẫn đất nước tới bên bờ vực lạm phát, suy thoái kinh tế, đó là sự thất bại của Chính phủ.
    - Lăi suất cũng là một công cụ quan trọng trong chính sách điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Phát hành trái phiếu dài hạn cũng là một trong những nguồn thu của NSNN. Trong những điều kiện cần thiết, nhà nước sẽ tăng lăi suất huy động, làm cho các nhà đầu tư sẽ t́m môi trường đầu tư là cho nhà nước vay hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh và ngược lại.
    - Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là do thị trường quyết định, nó phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các yếu tố khác. Do đó, sẽ có lúc giá cả sẽ lên cao gây ra những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, ngăn chặn t́nh trạng đầu cơ làm giá, kích thích sản xuất phát triển, nhà nước cần phải theo dơi sự biến động của giá cả trên thị trường, và phải có nguồn dự trữ hàng hoá và tài chính để điều chỉnh kịp thời. Nguồn dự trữ này được h́nh thành chủ yếu từ kinh phí cấp phát của NSNN. Do đó, sự thành công của nhà nước trong điều chỉnh chính sách giá cả và thị trường thông qua công cụ dự trữ nhà nước phụ thuộc vào kinh phí cấp phát NSNN cho mục đích này.
    - NSNN c̣n được dùng để trợ cấp xă hội trực tiếp cho những người có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, . Hay dùng để trợ cấp gián tiếp dưới h́nh thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đ́nh, chính sách việc làm, chống mù chữ, ủng hộ đồng bào băo lụt Qua đó Chính Phủ có thể giải quyết các vấn đề xă hội.
    - Kiềm chế và kiểm soát lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá tŕnh điều chỉnh thị trường. Có nhiều nguyên nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát, xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu, chi tài chính của nhà nước.
    Ngoài ra NSNN là công cụ phân phối của nhà nước đối với lợi tức quốc gia. Khu vực công và tư luôn có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, bổ trợ cho nhau nên việc vận hành hệ thống ngân sách của Chính Phủ tất yếu sẽ tác động mạnh mẽ tới khu vực tư nhân, hộ gia đ́nh, doanh nghiệp, là những chủ thể bị điều tiết thu nhập. Thông qua công cụ ngân sách, Chính Phủ điều tiết một phần thu nhập của nhóm người này để san sẽ cho một nhóm người khác, góp phần đem lại sự công bằng tương đối về thu nhập giữa các giai tầng xă hội. Đồng thời tạo ra các hàng hoá công cộng như hệ thống đường xá, cầu cống, công tŕnh phúc lợi công cộng, hệ thống quốc pḥng, an ninh mà khu vực tư nhân không thể cung cấp hoặc không muốn cung cấp.
    NSNN thực hiện vai tṛ là công cụ hướng dẫn tiêu dùng xă hội. Thuế khoá, hoa lợi hành chính và hoa lợi thương mại, đặc biệt là thuế tiêu thụ đặc biệt là một công cụ hiệu quả của nhà nước. Đối với một quốc gia đang trong quá tŕnh chuyển đổi nền kinh tế như Việt Nam, nhu cầu chi tiêu của quốc gia ở mọi phương diện trở nên bức thiết hơn bao giờ hết và điều đó đ̣i hỏi Chính Phủ phải xây dựng được các chương tŕnh hành động dài hạn trong nhiều năm với những kế hoạch khai thác tài nguyên hợp lư, nguồn lực một cách ổn định lâu dài nhằm góp phần tài trợ kịp thời cho các chương tŕnh chi tiêu của Chính Phủ. Cho dù trong tương lai nền kinh tế có thay đổi như thế nào th́ vai tṛ của NSNN đối với Chính Phủ và nền kinh tế công cộng cũng không thay đổi. NSNN vẫn là đóng vai tṛ là công cụ, phương tiện hiệu quả nhất để thực thi các chương tŕnh hành động của Chính phủ.
    1.3.2 Vai tṛ của NSNN trong hệ thống tài chính.
    Căn cứ vào đặc điểm h́nh thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính, cùng với chức năng và phạm vi hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường, người ta chia ra thành năm khu vực thể chế và từ đó h́nh thành năm khâu của hệ thống tài chính như sau:

    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Tài chính Nhà nước.
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Tài chính của khu vực tài chính
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Tài chính của khu vực phi tài chính
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Tài chính các tổ chức xă hội
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Tài chính các hộ gia đ́nh.
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]








    Trong các khâu của hệ thống tài chính, tài chính nhà nước được xem là khâu quan trọng liên quan đến hoạt động của các khu vực và gắn liền với quỹ tiền tệ. Tài chính nhà nước th́ bao gồm NSNN, ngân hàng nhà nước, tín dụng nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính nhà nước, tài chính các cơ quan sự nghiệp nhà nước, tài chính doanh nghiệp nhà nước, và các quỹ nhà nước, trong đó NSNN giữ vai tṛ hạt nhân, là thành phần chủ yếu.
    NSNN đóng vai tṛ chủ đạo luôn chi phối, tác động, gắn kết chặt chẽ các khâu khác trong hệ thống tài chính lại với nhau. Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đóng vai tṛ huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu lớn lao của bộ máy nhà nước, cho an ninh quốc pḥng và các mục đích khác nhằm củng cố quyền lực nhà nước mà c̣n có vai tṛ lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế xă hội. Đó là vai tṛ định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, b́nh ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, điều chỉnh đời sống xă hội .
    Thông qua phương thức huy động nguồn vốn từ các khu vực kinh tế, từ dân cư và từ các nguồn tài chính trong và ngoài nước, NSNN thể hiện vai tṛ thiết yếu và cấp bách của ḿnh thông qua việc thực hiện các khoản chi cho đầu tư kinh tế và một số các khoản chi khác không v́ mục tiêu kinh tế, lợi nhuận. Hoạt động thu và chi của NSNN làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa NSNN và xă hội, giữa Nhà nước này với Nhà nước khác hoặc các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Việc chi tiêu của NSNN cho các mục tiêu kinh tế và phi kinh tế sẽ có tác động làm gia tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn; chẳng hạn việc trả lương cho cán bộ viên chức của Nhà nước hoặc trợ cấp xă hội sẽ làm tăng nguồn vốn tài chính của các hộ gia đ́nh.
    2. Hệ thống NSNN.
    2.1 Khái niệm hệ thống NSNN.
    Trong một quốc gia, NSNN được tổ chức và quản lư theo hệ thống gồm nhiều cấp ngân sách. Do đó, có thể quan niệm hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá tŕnh tổ chức, huy động, quản lư các nguồn thu và thực hiện các nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách.

    2.2 Hệ thống NSNN ở Việt Nam.
    2.2.1 Tổ chức hệ thống NSNN.
    Tổ chức hệ thống NSNN là xác định, sắp xếp, bố trí các bộ phận cấu thành hệ thống ngân sách nhằm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ thu – chi của từng cấp ngân sách cũng như của toàn bộ hệ thống NSNN.
    Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới hệ thống NSNN đều được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy quản lư hành chính nhà nước. Các quốc gia có hệ thống chính quyền nhà nước được tổ chức theo thể chế Liên Bang như Mỹ, Đức, MaLaysia . th́ hệ thống NSNN bao gồm:
    - Ngân sách Liên Bang.
    - Ngân sách tiểu Bang.
    - Ngân sách địa phương.
    Khác với mô h́nh nhà nước liên bang, ở các nước có tổ chức hành chính theo kiểu Nhà nước đơn nhất như Trung Quốc, Nhật Bản, . th́ hệ thống NSNN gồm các khâu là: ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
    Hệ thống NSNN được tổ chức tương ứng với hệ thống chính quyền nhà nước, tuy nhiên không nhất thiết mỗi cấp chính quyền phải là một cấp ngân sách. Để xác định liệu một cấp chính quyền có nên được coi là một cấp ngân sách hay không cần phải xem xét hai yếu tố cơ bản là:
    - Nhiệm vụ của cấp chính quyền được giao phó phải tương đối toàn diện trên các lĩnh vực phát triển hành chính xă hội, kinh tế, chính trị trên phạm vi lănh thổ mà cấp chính quyền đó quản lư.
    - Tổng nguồn thu trên vùng lănh thổ mà cấp chính quyền đó quản lư phải có khả năng giải quyết được phần lớn các nhu cầu chi tiêu của ḿnh.
    Những cấp chính quyền nào không đáp ứng đủ hai điều kiện đó được gọi là đơn vị dự toán thuộc ngân sách cấp trên.
    Ở Việt Nam, việc tổ chức hệ thống NSNN cũng dựa vào hệ thống các đơn vị hành chính. Tuy nhiên, trong thực tiễn ngoài hai yếu tố cơ bản quyết định cơ cấu của hệ thống ngân sách nhà nước như đă đề cập ở trên, cấu trúc hệ thống ngân sách nhà nước ở mỗi quốc gia c̣n có thể chịu ảnh hưởng bởi yếu tố chính trị. Và như đă nói ở trên, trong lịch sử không nhất thiết phải mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách.
    - Trước đây, dưới thời thực dân, đế quốc đô hộ, ở miền Nam việt Nam, cơ cấu của hệ thống ngân sách chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi sự thăng trầm của định chế dân biểu. Thời bấy giờ, do sự hiện diện thất thường của Quốc Hội, Chính Phủ đă thiết lập hoặc xoá bỏ các cấp ngân sách một cách độc đoán, tuỳ tiện chứ không dựa trên một cơ sở thực tiễn nào.
    - Từ sau cách mạng tháng Tám 1945 tới trước 1967, nước ta chỉ có một cấp ngân sách duy nhất là NSNN, mỗi cấp chính quyền chỉ là những đơn vị dự toán của NSNN.
    - Nghị định 118/CP được ban hành vào ngày 01/08/1967 th́ hệ thống NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
    - C̣n Nghị quyết 108/CP được ban hành vào ngày 13/08/1978 th́ hệ thống NSNN của nước ta gồm ba cấp: ngân sách trung ương, ngân sách cấp tỉnh, và cấp huyện.
    - Sau đó, Nghị quyết 138/CP ngày 19/11/1983 đă chuyển hệ thống NSNN thành bốn cấp: ngân sách trung ương, ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xă. hệ thống ngân sách mới này tỏ ra thích ứng với đặc điểm và t́nh h́nh kinh tế - xă hội nước ta trong nửa đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX và đă khuyến khích các cấp chính quyền địa phương chủ động khai thác, bồi dưỡng nguồn thu; trên cơ sở đó đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế địa phương.
    - Hiện nay theo Khoản 1- Điều 4 Luật NSNN Việt Nam năm 2002 th́ NSNN gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương th́ bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính có cấp hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân. Cụ thể hệ thống NSNN hiện hành của Việt Nam được mô tả theo sơ đồ sau:

    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Hệ thống NSNN nước CHXHCN Việt Nam
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Ngân sách Trung ương
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]KHTC Bộ và cơ quan ngang Bộ
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]DTKP Bộ và cơ quan ngang Bộ
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Ngân sách địa phương
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Ngân sách huyện và cấp tương đương
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Ngân sách xă và cấp tương đương
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [TABLE=width: 100%]
    [TR]
    [TD]Ngân sách tỉnh, TP thuộc trung ương
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]









    Ở Việt Nam quan hệ giữa các các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc:
    - Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.
    - Nhiệm vụ chi thuộc cấp ngân sách nào do cấp ngân sách đó cân đối. Không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho cấp khác. Trường hợp cơ quan quản lư nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lư nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của ḿnh th́ phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
    - Thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương.
    - Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu ngân sách hằng năm (phần ngân sách địa phương được hưởng) để chi cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn.
    - UBND các cấp được sử dụng ngân sách cấp ḿnh để hỗ trợ cho các đơn vị do cấp trên quản lư đóng trên địa bàn trong các trường hợp xảy ra thiên tai và các trường hợp cấp thiết khác; hay các đơn vị do cấp trên kết hợp thực hiện một số nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp dưới.

    2.2.2 Các nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN.
    Nguyên tắc thống nhất: NSNN được tổ chức thống nhất và quản lư thống nhất từ trung ương đến địa phương. Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở:
    Cơ sở về chính trị: Tổ chức bộ máy chính quyền Việt Nam thống nhất từ trung ương đến địa phương dưới sự lănh đạo và điều hành của Quốc Hôi và Chính phủ. Ngân sách cấp dưới là một bộ phận của ngân sách cấp trên. Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương hợp thành một chính thể thống nhất.
    - Cơ sở về kỹ thuật: Nguồn thu của NSNN phân bổ trên khắp các vùng lănh thổ của quốc gia. V́ vậy, về mặt kỹ thuật, việc thiết lập một NSNN thống nhất về chính sách và thể chế thu, chi trong cả nước nhằm:
    + Giảm đến mức tối thiểu những biệt lập, gây ra t́nh trạng phân tán làm suy yếu nguồn lực tài chính nhà nước.
    + Thống nhất hệ thống báo cáo, chế độ thu – chi, chế độ lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.
    Nguyên tắc tập trung dân chủ: bao gồm bốn nội dung sau:
    - Sự tập trung quyền lực của Quốc Hội trong việc quyết định NSNN.
    - Sự tập trung quyền lực của Chính phủ trong quản lư NSNN.
    - Tính chủ đạo của ngân sách trung ương trong hệ thống NSNN.
    - Dự toán và quyết toán ngân sách xây dựng từ cơ sở.
    Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lư NSNN xuất phát từ xu hướng mở rộng chế độ dân chủ trong hệ thống chính trị. Người dân có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước, ngược lại họ có quyền yêu cầu Chính phủ công khai, minh bạch t́nh h́nh thu – chi NSNN về dự toán, quyết toán, kết quả kiểm toán NSNN để đánh giá mức mức độ hiệu quả và trách nhiệm của các cấp chính quyền nhà nước trong việc sử dụng nguồn lực tài chính công.
    Nguyên tắc cân đối: Cân đối NSNN thể hiện mối tương quan thu – chi NSNN. Trong quản lư NSNN phải tôn trọng nguyên tắc tổng số thu từ thuế, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp c̣n bội chi th́ số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu – chi ngân sách. C̣n ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu. Tôn trọng nguyên tắc trên v́:
    - Cân đối NSNN có tác động đến cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, cân đối cán cân thanh toán quốc tế.
    - Cân đối NSNN phản ánh các nguồn lực tài chính mà nhà nước có thể chi phối trực tiếp để sao cho thực hiện các nhiệm vụ được Hiến Pháp quy định.

    3. Cơ cấu thu – chi NSNN.
    Ngân sách của một quốc gia là văn kiện tài chính quan trọng nhất, trong đó những cơ quan có thẩm quyền t́m cách dự trù, tiên liệu các khoản thu và các khoản chi của quốc gia trong thời hạn nhất định. V́ thế, văn kiện tài chính này bao giờ cũng được cấu trúc bởi hai phần, đó là phần thu và phần chi.

    3.1 Thu NSNN.
    Về phương diện kinh tế, các khoản thu của NSNN được hiểu là những nguồn vốn tiền tệ do nhà nước huy động từ bên trong hay bên ngoài nền kinh tế quốc nội thông qua nhiều phương thức khác nhau để tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu lớn lao của nhà nước về kinh tế, chính trị, xă hội, an ninh quốc pḥng và quản lư nhà nước.
    Về phương diện pháp lư, các khoản thu này được thực hiện thông qua nững h́nh thức pháp lư nhất định như quy chế thu thuế, quy chế vay nơ, viện trợ . được thể hiện trong các quy định pháp luật hiện hành về tài chính.
    Nói đến cấu trúc các khoản thu NSNN là nói đến việc thiết kế, sắp xếp các khoản thu theo mô h́nh cho hợp lư và phát huy được tính hiệu quả cao nhất trong quá tŕnh thực hiện. Việc sắp xếp các khoản thu NSNN phải đảm bảo nguyên tắc toàn diện, đầy đủ và bao quát hết các nguồn thu trên cơ sở xác định nguồn thu nào là chủ yếu, trọng tâm và nguồn thu nào mang tính chất bổ sung.
    Xuất phát từ mục đích trên, pháp luật hiện hành đă quy định: “Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”.
    Và các khoản thu của NSNN được sắp xếp theo mô h́nh phân định nguồn thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương như sau:

    3.1.1 Nguồn thu của ngân sách trung ương.
    Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%:
    - Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu.
    - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
    - Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu.
    - Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
    - Các khoản thuế và thu khác từ dầu, khí theo quy định của Chính phủ.
    - Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các tổ chức kinh tế, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lăi), thu từ quỹ dự trữ tài chính của ngân sách trung ương, thu nhập từ vốn góp của nhà nước.
    - Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam.
    - Các khoản phí, lệ phí nộp vào ngân sách trung ương.
    - Thu kết dư ngân sách trung ương.
    - Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
    Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:
    - Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu.
    - Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
    - Thuế thu nhập đối với nguời thu nhập cao.
    - Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, không kể thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ lĩnh vực dầu, khí.
    - Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá dịch vụ trong nước.
    - Phí xăng, dầu.

    3.1.2 Nguồn thu của ngân sách địa phương.
    Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%:
    - Thuế nhà, đất.
    - Thuế tài nguyên không kể thuế tài nguyên từ dầu, khí.
    - Thuế môn bài.
    - Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
    - Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
    - Tiền sử dụng đất.
    - Tiền cho thuê đất.
    - Tiền cho thuê và bán Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước.
    - Lệ phí trước bạ.
    - Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
    - Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương.
    - Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương.
    - Các khoản phí, lệ phí, thu từ hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của Pháp luật.
    - Thu từ quỹ đất công ích và thhu từ hoa lợi công sản.
    - Huy động từ các tổ chức và cá nhân theo quy định của Pháp luật.
    - Đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
    - Thu kết dư ngân sách địa phương theo quy định của Pháp luật.
    Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương theo quy định của Pháp luật.
    Thu bổ sung từ ngân sách trung ương.
    Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công tŕnh kết cấu hạ tầng theo quy định.

    3.2 Chi NSNN.
    Về phương diện kinh tế, chi NSNN là hoạt động tài chính trong đó Nhà nước tiến hành sử dụng quỹ NSNN để tài trợ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ḿnh trong một thời hạn nhất định (thường là một năm) theo một kế hoạch chi tiết đă được Quốc hội quyết định.
    Về phương diện pháp lư, chi NSNN được hiểu là chế độ phân phối đặc thù các nguồn lực tài chính, trong đó Nhà nước thực thi quyền sở hữu của ḿnh đối với nguồn vốn quỹ NSNN bằng cách “cấp phát không hoàn lại” NSNN cho các đối tượng hưởng kinh phí ngân sách. Trên nguyên tắc các khoản chi cũng phải được sắp xếp thiết kế một cách khoa học, hợp lư nhằm đảm bảo thực hiện chúng một cách hiệu quả và tiết kiệm.
    Khoản 2- điều 2 Luật NSNN năm 2002 đă quy định “Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xă hội, bảo đảm quốc pḥng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của Pháp luật”.
    Với mục đích ngày càng góp phần cải thiện ngày càng tốt hơn t́nh trạng thâm hụt NSNN, người ta thường thiết kế cơ cấu chi tiêu theo hướng phân định nhiệm vụ chi NSNN.
     
Đang tải...