Tài liệu Thủ lĩnh nguyễn hữu huân

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    THỦ LĨNH NGUYỄN HỮU HUÂN
    Người anh hùng tự điếu mình



    * Lê Ngọc Trác


    Kể từ ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Và, chỉ trong vòng 8 năm, bằng những thủ đoạn chính trị, quân sự, Pháp đã xâm chiếm toàn bộ 6 tỉnh miền Nam. Trước sự nhu nhược, chủ trương cầu hòa với Pháp của triều đình Tự Đức, nhiều sĩ phu yêu nước ở miền Nam đã tập hợp dân chúng khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1859 đến năm 1875, nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã nổ ra. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực và Nguyễn Hữu Huân .

    Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1816, quê ở phủ Kiến An, tỉnh Định Tường, nay là huyện Chợ Gạo tỉnh Tiền Giang. Năm 1852, ông thi đỗ đầu khoa kỳ thi hương tại trường thi Gia Định nên người đời thường gọi là Thủ khoa Huân. Được triều đình bổ nhiệm chức giáo thụ ở phủ Kiến An. Năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định, Nguyễn Hữu Huân chiêu mộ quân nghĩa dũng tham gia chiến đấu chống Pháp. Sau hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, ông đem lực lượng ứng nghĩa gia nhập lực lượng nghĩa quân do Trương Định lãnh đạo tiếp tục chống Pháp. Năm 1863, khi căn cứ kháng chiến chống Pháp ở Gò Công bị vỡ, Nguyễn Hữu Huân đưa quân về xây dựng căn cứ kháng chiến tại Bình Cách và trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp ở Định Tường. Khi Pháp tấn công Bình Cách, ông rút quân sang An Giang, kết hợp cùng thủ lĩnh Võ Duy Dương tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp. Tháng 7 năm 1864, ông bị quan chủ tỉnh An Giang bắt nộp cho Pháp và bị kết án tù khổ sai chung thân, đày đi Réunion. Đến năm 1869 mới được trả về và bị Pháp quản thúc tại Chợ Lớn. Thời gian này, Nguyễn Hữu Huân vẫn tìm mọi cách để liên lạc với những người yêu nước để mưu tính một cuộc khởi nghĩa lớn.

    Nguyễn Hữu Huân là một người có tài về thơ văn. Thơ của ông mang nặng tình quê hương đất nước, nêu cao tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Khi bị lưu đày sang xứ người, ông đã viết một bài thơ, thể hiện ý chí của mình:

    Muôn việc cho hay ở số trời,
    Cái thân chìm nổi biết là nơi.
    Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
    Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
    Chén rượu Tân-đình nào luận tiệc,
    Câu thơ cố quốc chẳng ra lời.
    Cương thường bởi biết mang nên nặng,
    Hễ đứng làm trai chuốc nợ đời.

    Năm 1872, Nguyễn Hữu Huân bỏ trốn về vùng Mỹ Tho, Tân An. Ông cùng Âu Dương Lân và nhiều người khác khởi binh chống Pháp. Phong trào chống Pháp do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo đã lan khắp miền Tây Nam Kỳ. Một hệ thống kháng chiến được xây dựng đến tận thôn xã ở tỉnh Mỹ Tho. Đến năm 1874, lực lượng nghĩa quân suy yếu do thiếu khí giới và đạn dược. Thực dân Pháp liền huy động một lực lượng lớn tấn công căn cứ Bình Cách. Nghĩa quân tan vỡ. Nguyễn Hữu Huân thoát chạy về Chợ Gạo. Đầu năm 1855, Nguyễn Hữu Huân trở lại vùng Tân An để tập họp lại lực lượng tiếp tục con đường chống Pháp, nhưng bị Pháp và tay sai bao vây lùng bắt. Sau khi bắt được Nguyễn Hữu Huân, thực dân Pháp đưa ông lên Sài Gòn. Sau đó, lại giải về Mỹ Tho để xử tử ông tại Bến Tranh vào ngày 19 tháng 5 năm 1875. Trước khi hành hình, giặc Pháp đóng gông, bắt ông ngồi trên mũi thuyền chở từ nhà ngục Mỹ Tho đến Bến Tranh. Giặc Pháp cho đánh trống inh ỏi để quy tụ dân chúng, hòng uy hiếp tinh thần của những người yêu nước. Trên đường bị áp giải, Nguyễn Hữu Huân làm bài thơ Mang gông, tỏ rõ khí phách của mình và lên án những kẻ đầu hàng làm tay sai cho Pháp:
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...