Thạc Sĩ Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sĩ
    Đề tài: Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
    Định dạng file word

    Mở đầu
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, sau hơn hai mươi năm đổi mới nền kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Cùng với các ngành khác, trong những năm qua ngành du lịch của Lào đã phát triển mạnh, nhanh và liên tục có sự tăng trưởng đáng kể. Tỷ trọng du khách năm 2007 tăng 34%, tổng doanh thu từ du lịch đạt 223,3 triệu USD, chiếm 8% GDP.
    Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo, ủng hộ tạo điều kiện của lãnh đạo tỉnh, tổng cục Du lịch và các bộ ngành Trung ương, đồng thời có sự phối hợp và hỗ trợ của chính quyền địa phương các cấp cũng như sự quan tâm của các nhà đầu tư, du lịch tỉnh Hủa Phăn đã thu được những kết quả nhất định. Nhờ thu hút vốn đầu tư tăng, các kênh huy động vốn ngày càng đa dạng, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia, nên du lịch tỉnh Hủa Phăn phát triển nhanh, mạnh và liên tục.
    Hiện nay, du lịch tỉnh Hủa Phăn đã và đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của tỉnh. Trong 5 năm qua (2004 - 2008) doanh thu từ du lịch tăng trưởng bình quân 18,56%/năm. Lượt khách du lịch bình quân 25%/năm.
    Nhưng tiềm năng du lịch vốn có của tỉnh còn rất lớn như vườn quốc gia bảo tồn động – thực vật Nặm ét – Phu Lơi, Nặm Xăm, nhiều suối nước nóng, danh lam thắng cảnh, thác nước, hang động nhất là ở huyện Viêng Xay, chưa khai thác được. Do vậy, cần thu hút mạnh mẽ hơn nữa vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế, nhằm thu hút các lực lượng lao động, đa dạng hoá các hình thức hoạt động du lịch, tăng lượt khách du lịch, đẩy mạnh xúc tiến và tiếp thị du lịch, xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch tỉnh Hủa Phăn, ra thị trường thế giới, tìm kiếm mở rộng thị trường mới; phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng, dịch vụ phục vụ du lịch, tổ chức các tuyến du lịch và nối các tuyến du lịch trong tỉnh với các tuyến du lịch của cả nước; từng bước nâng cao chất lượng của ngành du lịch ngang tầm quốc tế tăng doanh thu, đóng góp GDP du lịch vào giá trị tổng sản phẩm của tỉnh.
    Để phát triển ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn một cách bền vững đòi hỏi cần giải quyết hàng loạt vấn đề, trong đó vấn đề tìm kiếm các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư nhằm khai thác một cách bền vững tiềm năng du lịch mà thiên nhiên ưu đãi cho tỉnh Hủa Phăn là vấn đề quan trọng có tính chiến lược.
    Với những lý do trên đây, cùng với sự ham thích và mong muốn đóng góp vào công tác quy hoạch đầu tư phát triển vào ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn - ngành kinh tế mà được Đảng và chính quyền tỉnh Hủa Phăn ưu tiên phát triển hàng đầu, tôi chọn đề tài “Thu hỳt vốn đầu tư để phỏt triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hoà Dõn chủ Nhõn dõn Lào” làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
    2. Tình hình nghiên cứu
    Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Những công trình nghiên cứu đó, chủ yếu đề cập đến việc thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và một số nước trong khu vực hiện nay.
    - Võ Văn Cần (2008), “Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch Khánh Hoà đến năm 2020”. Luận văn Thạc sĩ kinh tế.
    - Nguyễn Văn Lúa (2007), “Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam”. Luận văn thạc sĩ kinh tế.
    - Nguyễn Minh Tuấn (2008), “ Kinh tế nhiều thành phần trong lĩnh vực du lịch ở Đồng Tháp”. Luận văn thạc sĩ kinh tế.
    Đối với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, việc nghiên cứu của những công trình khoa học này chỉ đề cập đến một khía cảnh nào đó trong chính sách thu hút vốn đầu tư; chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống tập trung vào vấn đề thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch nói chung và du lịch tỉnh Hủa Phăn hiện nay.
    3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
    3.1. Mục đích
    Phân tích lý luận về vốn đầu tư và vai trò của việc thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch. Làm rõ thực trạng thu hút vốn đầu tư vào phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch trong những năm tới.
    3.2. Nhiệm vụ
    - Nghiên cứu cơ sở lý luận và những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch, kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư vào phát triển du lịch ở một số tỉnh trong nước.
    - Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn từ năm 2005 đến nay.
    - Đưa ra một số phương hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn từ nay đến năm 2015, tầm nhìn năm 2020.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    4.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu là thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch.
    4.2. Phạm vi nghiên cứu
    - Đề tài nghiên cứu thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào từ năm 2005 đến nay.
    - Giới hạn nghiên cứu thu hút vốn tiền tệ để phát triển du lịch: từ ngân sách Nhà nước và các thành phần kinh tế, từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
    5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
    Về cơ sở lý luận : Luận văn dựa trên cơ sở phương hướng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Trước hết, nắm vững và vận dụng đúng phương pháp luận Mác – Lênin với 3 quan điểm rất cơ bản.
    Một là, quan điểm lịch sử cụ thể. Lịch sử cụ thể phải căn cứ vào từng địa điểm cụ thể, từng địa phương cụ thể, từng xã hội cụ thể, từng quốc gia – dân tộc cụ thể, trong thời gian và không gian nhất định. Lịch sử cụ thể ấy không thể chỉ nối tiếp “cái nọ” sau “cái kia”, “cái nọ” do “cái kia”, mà còn đan xen và lồng ghép với nhau. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của phương pháp luận Macxít trong nghiên cứu đề tài là nghiên cứu phải xuất phát từ đặc điểm cụ thể ở dân tộc Lào, tỉnh Hủa Phăn là chính, đồng thời tiếp biến kinh nghiệm các tỉnh khác với các nước khác trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc mà phải biến cải.
    Hai là, quan điểm vận động và phát triển. Thực tiễn và thực tế là diễn biến của lịch sử và thời đại, nó luôn luôn vận động và biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, thì lý luận cũng phải vận động và biến đổi cho phù hợp với thực tiễn và thực tế ấy, Những thành tựu mới về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nhất là khoa học & công nghệ của loại người rọi chiếu một ánh sáng mới đòi hỏi phải có cách nhìn mới, lý luận mới. Vận dụng quan điểm vận động và phát triển của phương pháp luận Mác – Lênin vào nghiên cứu đề tài là lý luận, giải pháp không có sẵn mà phải được rút ra từ thực tế và thực tiễn hoạt động của ngành du lịch của tỉnh Hủa Phăn ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, cần phải được làm giàu, bổ sung, đổi mới và phát triển.
    Ba là, quan điểm quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, mà chân lý là cụ thể. Nhưng căn cứ để rút ra lý luận không chỉ là thực tiễn, mà còn là thực tế cuộc sống, trong đó thực tiễn là hoạt động của ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, còn thực tế rộng hơn, nó bao gồm toàn bộ cuộc sống nhà nước và xã hội, cuộc sống có một môi trường nhất định. Lý luận không chỉ giải thích, mà còn nhằm đổi mới hoạt động của ngành du lịch của tỉnh Hủa Phăn. Vấn đề đổi mới cần nhận thức rõ, nếu hiểu đúng, vận dụng đúng, thực hành đúng sẽ thành công, nhưng có nguy cơ hiểm hoạ rất lớn, thất bại nặng nề, nếu hiểu sai, làm lệch
    Về phương pháp nghiên cứu:
    Một là, kết hợp phương pháp ngành và đa ngành (kinh tế chính trị học, chính trị học, chính sách học, lãnh đạo quản lý học) với phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp để giải quyết nội dung nghiên cứu của đề tài.
    Hai là, kết hợp nghiên cứu quan điểm Mác – Lênin, đường lối của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chính sách của Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, kế thừa chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trước trong các cuộc hội thảo khoa học, sách báo, tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến đề tài. Phải vượt qua chính mình, thoát khỏi sự trói buộc của những lý thuyết, quan điểm lần nay được coi là nguyên lý, nhưng bị thực tế bác bỏ. Hướng nghiên cứu đi tìm cái đúng, nghĩa là cái phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của dân, phù hợp với thực tế ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phù hợp với xu thế của thời đại.
    Ba là, đề tài tổ chức đi khảo sát thực tế ở một số địa phương trong tỉnh Hủa Phăn về thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch như Huyện Viêng Xay, huyện Xăm Tớ và các Sở, ban ngành có liên quan, nhằm làm sáng tỏ cả các vấn đề lý luận, thực trạng tổ chức cơ sở thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch ở Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Trên những cơ sở đó, đề tài đề ra quan điểm, định hướng và các biện pháp có ý nghĩa thực tế, khắc phục những vấn đề tồn tại của việc thu hút vốn đầu tư phát triển ngành du lịch ở Hủa Phăn hiện nay.
    6. Những đóng góp mới của luận văn
    - Về mặt lý luận: luận văn hệ thống hoá vấn đề về vốn từ lý luận Mác – Lênin đến hiện nay
    - Về mặt thực tiễn: luận văn đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa thực tiễn nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào từ nay đến năm 2015, tầm nhìn năm 2020.
    7. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn bao gồm 3 chương, 7 tiết



    Chương 1
    Cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút vốn
    đầu tư phát triển du lịch
    1.1. nguồn vốn đầu tư và nội dung thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch
    1.1.1. Khái niệm và phân loại vốn
    1.1.1.1. Khái niệm vốn
    Thuật ngữ “vốn” đã được phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Các học thuyết kinh tế từ Aristotle (384 – 322 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp cổ đại, nhà kinh tế sơ khai, William Petty (1623-1687) là người đặt nền móng cho trường phái Kinh tế chính trị cổ điển ở Anh, Francois Quesnay (4 tháng 6, 1694 - 16 tháng 12, 1774) là người đứng đầu khuynh hướng trọng nông – khuynh hướng đặc biệt trong trường phái Kinh tế học cổ điển, Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học vĩ đại người Scotland, John Stuart Mill (20 tháng 5, 1806 – 8 tháng 5, 1873) là một nhà triết học và nhà kinh tế chính trị học người Anh, David Ricardo (18 tháng 4, 1772–11 tháng 9, 1823) là một nhà kinh tế học người Anh, Alfred Marshall (born 26 July 1842 in Bermondsey, London, England, died 13 July 1924 in Cambridge, England) was an English economist and one of the most influential economists of his time, Karl Heinrich Marx (thường được phiên âm là "Các Mác"; sinh 5 tháng 5 năm 1818 tại Trier, Đức – mất 14 tháng 3 năm 1883 tại Luân Đôn) là nhà tư tưởng, nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế, John Maynard Keynes (5 tháng 6 1883 – 21 tháng 4 1946) là một nhà kinh tế học người Anh, R. arrod, E. Domar, E. Hansen, M. Fridman, F. Hayek, J. R. Hiks, Paul Adam Samuelson (1915-) là một nhà kinh tế học người Hoa Kỳ, đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp đều bàn đến vốn theo những phương pháp tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, đến nay chưa có sự thống nhất khái niệm về vốn. Dưới đây là một số quan điểm khác nhau về vốn.
    Vốn là “bất kỳ tài sản hay nguồn tài sản nào – tài chính hay vật chất có khả năng tạo ra thu nhập” [11, tr. 56]. Quan niệm này nhấn mạnh thuộc tính tạo ra thu nhập của vốn.
    Hay “đây là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (đất đai, lao động, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (máy móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán thành phẩm) ” [12, tr. 300]. Quan niệm này tách bạch vốn với các yếu tố khác thuộc đầu vào của quá trình sản xuất là đất đai, lao động; chỉ rõ các biểu hiện cụ thể của vốn: máy móc, thiết bị, công cụ, nhà cửa, kho bãi .
    Có quan niệm khác cho rằng: “vốn là một khối lượng tiền nào đó được ném vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lợi. Số tiền đó được sử dụng muôn hình, muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn số tiền ban đầu” [6, tr 26-27]. Quan niệm này đã cụ thể hoá hơn về phạm trù vốn, cho rằng vốn là tiền dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh hay dịch vụ chuyển hoá thành tư liệu sản xuất và tiền công cho người lao động.
    Trong tiếng Anh, vốn và tư bản là hai từ đồng nghĩa (Capital: vốn, tư bản). Chúg ta có thể tìm hiểu khái niệm vốn thông qua phạm trù tư bản mà C. Mác đã làm rõ trong bộ “Tư Bản”. Xin nêu tóm tắt một số luận điểm cơ bản của C. Mác về tư bản như sau:
    - Tiền tệ là sản phẩm cuối cùng của lưu thông hàng hoá đồng thời là hình thái đầu tiền của tư bản.
    - Tiền là tư bản vận động theo công thức T – H - T’
    - Trong quá trình vận động tư bản mang ba hình thái: tư bản tiền tệ; tư bản sản xuất; tư bản hàng hoá và không ngừng chuyển hoá từ hình thái này sang hình thái kế tiếp.
    - Tư bản là giá trị, thông qua quan hệ xã hội mà đem lại giá trị lớn hơn.
    Từ những cách tiếp cận khác nhau về vốn và xuất phát từ những luận điểm trên của C.Mác, có thể hiểu: “vốn là giá trị của tất cả các tài sản hữu hình và vô hình được đem vào hoạt động sản xuất và kinh doanh, tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ”.
    1.1.1.2. Phân loại vốn
    Dựa theo những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại vốn thành các loại khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại cơ bản.
    Một là, căn cứ vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
    Vốn cố định là giá trị của những tài sản cố định như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải. Vốn cố định có đặc điểm là giá trị của nó chuyển dần vào trong sản phẩm, vì vậy thời gian chu chuyển dài, phải tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất mới thu hồi lại được.
    Vốn lưu động, là giá trị của những tài sản lưu động như: nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm dở dang, các khoản tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả .Vốn lưu động chu chuyển nhanh, giá trị của vốn lưu động chuyển toàn bộ vào trong sản xuất, sau mỗi chu kỳ sản xuất là thu hồi được toàn bộ vốn lưu động ứng ra.
    Hai là, căn cứ vào quan hệ sở hữu và vốn trong kinh doanh thì bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Vốn tự có là vốn thuộc quyền sở hữu của chủ thể kinh doanh. Vốn đi vay là số vốn đi vay nợ để sản xuất kinh doanh của chủ thể kinh doanh [8, tr 10].
    Ba là, căn cứ vào thời gian tham gia của vốn vào quá trình hoạt động có vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn nhằm thực hiện các mục tiêu có tính chất chiến lược, đảm bảo các lợi ích trong dài hạn. Vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng vào việc mua sắm các tài sản cố định, thay đổi công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
    Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để mua sắm những yếu tố chi dùng thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đều đặn, trôi chảy.
    Ngoài cách tiếp cận trên, còn có những cách phân loại vốn khác như: căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn ở phạm vi không gian trong nước hay ngoài nước có vốn trong nước và vốn nước ngoài; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn giữa chủ thể là nhà nước và các chủ thể khác có nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
    Mặc dù có nhiều tiêu thức để phân thành nhiều loại vốn khác nhau, nhưng xét về bản chất nó là một thể thống nhất. Việc phân vốn thành các loại khác nhau để giúp chúng ta nhận thức rõ hơn vai trò, đặc điểm của từng loại vốn, chủ động trong thu hút, vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của mình.
    1.1.2. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư
    Hiện nay, nền kinh tế của Lào đang chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, đó là môi trường thuận lợi để vốn bộc lộ bản chất, vai trò của mình. Việc tìm hiểu, nhận thức lại khái niệm và những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư là công việc cần thiết, trước khi đi tìm các giải pháp để thu hút vốn cho đầu tư phát triển.
    Vốn đầu tư là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị của các tài sản quốc gia được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình nhằm vào mục đích đầu tư để sinh lời.
    Cần chú ý rằng, nguồn lực trên phải nằm trong một dự án đầu tư thì mới được coi là nguồn vốn đầu tư. Nếu không, chúng chỉ là nguồn lực tích luỹ và dự trữ dưới dạng tiềm năng. Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư phải là nguồn lực trong trạng thái “động”.



    Kết luận

    Với mục tiêu của đề tài là thu hút nguồn vốn vào ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn, trên cơ sở vận dụng và tổng hợp các phương pháp để nghiên cứu đề tai “Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào” đã hoàn thành những nội dung cơ bản sau đây:
    Giới thiệu tổng quan về đầu tư, cách phân loại vốn đầu tư, chỉ ra các nguồn vốn phục vụ đầu tư. Luận văn cũng đã tìm hiệu khái niệm về du lịch và chỉ ra sự cần thiết phải thu hút các nguồn vốn để phát triển du lịch cũng như tổng hợp các nhân tố có ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư vào ngành du lịch. Bên cạnh đó, luận văn cũng tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm thu hút các nguồn vốn đầu tư cũng như thu hút khách vào ngành du lịch của một số tỉnh có hoạt động du lịch phát triển trong nước, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm thiết thực trong quá trình huy động các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển du lịch tỉnh Hủa Phăn.
    Trên cơ sở phát triển ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn trong giai đoạn 2001 – 2008, cũng như phân tích những lợi thế và hạn chế nguồn tài nguyên du lịch, môi trường đầu tư hiện có tại địa phương, thực trạng huy động các nguồn vốn tại trợ cho đầu tư phát triển du lịch trong thời gian qua ở tỉnh Hủa Phăn, luận văn đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc cần khắc phục. Trong đó nổi bật là sự bất cập huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch, sự mất cân đối trong thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, những vướng mắc trong triển khai dư án.
    Với mục tiêu và định hướng của ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn đến năm 2015 và tầm nhìn năm 2020, luận văn đã đưa ra hệ thống các giải pháp huy động các nguồn vốn và các thành phần kinh tế cho phát triển du lịch tỉnh Hủa Phăn nhanh, bền vững và đúng hướng trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, cần huy động vốn không những từ nguồn vốn trong nước qua các kênh ngân sách nhà nước, tiết kiệm của doanh nghiệp và dân cư, từ các định chế tài chính trung gian. Ngoài ra, còn chỉ ra huy đọng nguồn vốn từ nước ngoài bằng cách thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ chính thức (ODA). Đồng thời luận văn cũng đưa ra các giải pháp hỗ trợ cho việc thu hút vốn đầu tư như tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, hoàn thiện quy hoạch và quản lý quy hoach phát triển du lịch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch, cải cách thủ tục hành chính, lành mạnh môi trường đầu tư.
    Từ những kết luận trên đây cho thấy, để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn từ nay cho đến năm 2020, với mục tiêu đưa ngành du lịch thành ngành kinh tế đóng góp quan trọng cho sự tăng kinh tế của địa phương, cần phải có sự phối hợp động bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện những chiến lược phát triển đã đề ra, trong đó công tác huy động vốn phải được đẩy mạnh để tăng cường đầu tư thúc đảy ngành du lịch phát triển nhanh, cân đối và bền vững trong tương lai.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...