Tiến Sĩ Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 16/3/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SỸ
    NĂM 2013

    MỤC LỤC
    Trang bìa . i
    Lời cam đoan ii
    Mục lục . iii
    MỞ ĐẦU 1
    Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 7
    1.1. Tình hình nghiên cứu thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay 7
    1.1.1. Tình hình nghiên cứu thơ dân tộc thiểu số từ 1945 đến nay . 7
    1.1.2. Tình hình nghiên cứu thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay . 15
    1.2. Văn hóa dân tộc Tày 19
    1.2.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên 19
    1.2.2. Văn hóa vật chất . 20
    1.2.3. Văn hóa tinh thần 22
    1.3. Đội ngũ nhà thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay . 28
    1.3.1. Trước 1945 28
    1.3.2. Từ 1945 đến nay . 29
    Chương 2: HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TRONG THƠ DÂN TỘC TÀY TỪ 1945 ĐẾN NAY . 44
    2.1. Hai giai đoạn phát triển của thơ dân tộc Tày sau 1945 44
    2.2. Đời sống và tâm thế con người dân tộc Tày 53
    2.2.1. Quê hương 53
    2.2.2. Con người . 61
    2.2.3. Tình yêu 71
    Chương 3: CÁC PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CƠ BẢN CỦA THƠ DÂN TỘC TÀY
    TỪ 1945 ĐẾN NAY 77
    3.1. Sự đan xen thể loại . 79
    3.2. Sự đa dạng của ngôn ngữ và giọng điệu thơ 88
    3.2.1. Ngôn ngữ . 88
    3.2.2. Giọng điệu . 96
    3.3. Một số biểu tượng thơ tiêu biểu . 99
    3.3.1. Biểu tượng thơ 99
    3.3.2. Hệ thống biểu tượng trong thơ Tày từ 1945 đến nay 102
    3.3.3. Nhận xét 118
    Chương 4: MỘT SỐ PHONG CÁCH SÁNG TẠO TRONG THƠ DÂN TỘC TÀY TỪ 1945 ĐẾN NAY. 122
    4.1. Thơ Nông Quốc Chấn - sự kết hợp truyền thống và tinh thần thời đại . 123
    4.2. Thơ Y Phương - giàu chất trí tuệ . 132
    4.3. Thơ Dương Thuấn - khát vọng hướng về nguồn cội . 139
    KẾT LUẬN . 147
    DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 151
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
    PHỤ LỤC MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài
    1.1. Nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng muốn phát triển được, muốn vươn tới những đỉnh cao mới thì luôn cần sự đổi mới tư duy, cách viết. Cuộc sống bề bộn, phức tạp đã thổi một luồng gió mới, giải phóng mọi năng lực sáng tạo trong xã hội, trong đó có thơ ca. Ngay từ khi mới ra đời, thơ dân tộc thiểu số nói riêng và văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung đã là một bộ phận không thể tách rời của nền văn học nghệ thuật Việt Nam, góp phần làm nên một tiếng nói độc đáo, giàu bản sắc. Với những tác phẩm của mình, các thế hệ nhà thơ dân tộc thiểu số đã tạo thành một gương mặt chung, một phong cách chung thống nhất trong đa dạng. Theo thời gian, thơ dân tộc thiểu số ngày một sung sức, phát triển cả về lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm và chất lượng cũng có những thay đổi đáng kể.
    Nhìn lại quá trình vận động và phát triển của đội ngũ văn nghệ sĩ các dân tộc thiểu số, có thể thấy rằng, sự xuất hiện của mỗi thế hệ cầm bút, mỗi tác giả đều gắn với những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử xã hội cụ thể nhất định, trong đó không thể phủ nhận vai trò góp sức của rất nhiều yếu tố khác trong xã hội. Trong diễn biến phức tạp tưởng như khó nắm bắt được của các sự kiện văn học, tiến trình văn học dân tộc Tày vẫn diễn ra theo một trình tự, một quy luật nhất định mà các giai đoạn văn học cụ thể chỉ là sự tiếp nối lẫn nhau một cách logic. Nhìn vào chặng đường phát triển với bốn thế hệ tiếp nối nhau, có thể thấy đội ngũ các nhà thơ dân tộc Tày vẫn chiếm số lượng đông đảo nhất và cũng là dân tộc có nhiều thành tựu nhất so với các dân tộc thiểu số khác. Một tín hiệu đáng mừng là dân tộc Tày cũng là dân tộc có được đội ngũ kế cận tương đối nhiều và đồng đều để tiếp bước thế hệ trước.
    Thế hệ đầu tiên của thơ dân tộc Tày có thể kể đến Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân hầu hết là những trí thức sống gắn bó với quê hương, dân tộc mình, giác ngộ cách mạng đi kháng chiến, gặp gỡ, học hỏi và được các văn nghệ sĩ người Kinh giúp đỡ trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Họ là lớp đầu tiên, đặt nền móng cho văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Thế hệ thứ hai xuất hiện trong thời kỳ xây dựng hòa bình và trong kháng chiến chống Mỹ. Họ sống, lao động, chiến đấu gắn bó với thực tế và rất nhiều trong số đó được học tập, được đào tạo, bồi dưỡng trở thành văn nghệ sĩ chuyên nghiệp như: Ma Đình Thu, Triệu Lam Châu, Y Phương, Mai Liễu, Ma Trường Nguyên, Triệu Sinh, Ma Phương Tân, Lương Định, Nông Thị Ngọc Hòa, Đoàn Ngọc Minh, Hữu Tiến, Dương Thuấn . rồi lớp nhà thơ tuy tuổi đời còn trẻ nhưng đã có những thành công nhất định: Tạ Thu Huyền, Dương Khâu Luông, Bế Phương Mai, Nông Thị Tô Hường, Đinh Thị Mai Lan, Vi Thùy Linh, Hoàng Chiến Thắng, Phạm Văn Vũ . Hiện nay dân tộc Tày có một đội ngũ nhà thơ đông đảo với những sáng tác chất lượng, có những đóng góp tích cực đáng kể cho văn học nghệ thuật nước nhà.
    1.2. Thực trạng nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc thiểu số nói riêng hiện nay còn nhiều hạn chế. Văn học các dân tộc thiểu số rất cần được sự tham gia, đánh giá, ủng hộ, khuyến khích của các nhà phê bình văn học, thông qua những công việc như: giới thiệu, phê bình trên tinh thần thẳng thắn, đoàn kết, dân chủ, bình đẳng; phát hiện và bồi dưỡng những tài năng mới Cần phải đẩy mạnh nghiên cứu theo hướng có những đánh giá, khái quát về thơ, văn các dân tộc thiểu số bên cạnh những bài viết giới thiệu phê bình từng tác phẩm, tác giả riêng lẻ.
    Cũng như thơ dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc Tày nói riêng ít được nghiên cứu. Các công trình đã có phần nhiều dành cho việc khái quát, tổng kết theo giai đoạn hoặc từng dân tộc nhưng còn thiếu sự chuyên sâu. Bên cạnh đó là những công trình phác thảo diện mạo theo hướng tập trung những gương mặt tiêu biểu . Bởi vậy, riêng về thơ dân tộc Tày chưa có công trình nào riêng biệt. Diện mạo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại chỉ có thể được nhìn nhận một cách trọn vẹn thống nhất khi có sự đánh giá đúng vai trò của thơ ca các dân tộc thiểu số. Bởi vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về thơ ca các dân tộc thiểu số, trong đó không thể thiếu thơ dân tộc Tày là một công việc có ý nghĩa thiết thực. Xuất phát từ những lí do đó, chúng tôi lựa chọn Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay làm đề tài nghiên cứu cho luận án.

    2. Mục tiêu nghiên cứu
    Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng, độc đáo của văn học Việt Nam. Bởi vậy, muốn tìm hiểu những đặc điểm của thơ ca Việt Nam hiện đại, không thể không nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của bộ phận thơ ca các dân tộc thiểu số, trong đó có thơ ca dân tộc Tày. Việc tìm hiểu, nghiên cứu những đặc điểm của thơ ca dân tộc Tày từ năm 1945 đến nay góp phần tìm hiểu, soi sáng một bộ phận quan trọng trong bức tranh văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, từ đó có cái nhìn tương đối đầy đủ, toàn diện về những đặc điểm nổi bật, độc đáo của thơ ca dân tộc Tày trên các bình diện đội ngũ, nội dung và hình thức nghệ thuật, những phong cách sáng tạo độc đáo.
    Luận án phác hoạ lại diện mạo thơ của dân tộc Tày từ 1945 đến nay nhưng đặc biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hóa vùng đến những sáng tác. Trong mỗi phần giải quyết những luận điểm cụ thể, chúng tôi phân tích theo hướng đối chiếu, so sánh để nhận rõ hơn những điểm tương đồng và nhất là những khác biệt của thơ dân tộc Tày so với sự phát triển chung của thơ dân tộc Kinh cũng như so với sự thay đổi của thơ ca các dân tộc thiểu số khác như Thái, H’mông, Dao, Mường . Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, văn hóa, văn học dân tộc Tày có sự ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển của văn học nhiều dân tộc thiểu số khác trong vùng Việt Bắc cũng như văn học Kinh kế cận miền xuôi.
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Luận án lấy mốc bắt đầu từ năm 1945 để khảo sát. Đây là thời điểm mà nhiều nhà nghiên cứu văn học đã lựa chọn và thừa nhận sự biến chuyển lớn của văn học Việt Nam hiện đại nói chung và văn học dân tộc thiểu số/ dân tộc Tày cũng không ngoại lệ. Tuy có những cách phân kỳ khác nhau, nhưng đối với văn học hiện đại Việt Nam thì các nhà nghiên cứu đều thống nhất lựa chọn mốc 1945, không chỉ bởi đó là một mốc lịch sử quan trọng mà còn vì “văn học trước và sau Cách mạng tháng Tám có nhiều điều khác nhau rõ rệt. Đó là sự khác nhau từ hình thái xã hội, từ phạm trù văn hóa, từ ý thức hệ của thời đại, dẫn đến sự khác nhau về quan điểm nghệ thuật, về cảm hứng chủ đạo trong văn học, về đề tài, về thế giới nhân vật trong văn học .” [21, tr.12].
    Văn học dân tộc thiểu số nói chung và văn học hiện đại dân tộc Tày nói riêng có sự phát triển đi sau so với bề dày thành tựu và thời gian hình thành của văn học miền xuôi. Theo nhà phê bình Lâm Tiến thì “văn học viết các dân tộc thiểu số Việt Nam mới chỉ hình thành và phát triển vào thế kỷ XX” [92, tr.138]. Giai đoạn trước nữa, từ thế kỷ XVII, dân tộc Tày có Bế Văn Phủng và Nông Quỳnh Văn là hai tác giả nổi tiếng, dân tộc Thái cũng có Ngần Văn Hoan (thế kỷ XIX) với một số sáng tác được đồng bào các dân tộc yêu mến . Tuy nhiên, sự xuất hiện đó còn ở dạng “lẻ tẻ, không có sự chắp nối, chất lượng tác phẩm còn mang đậm dấu vết của văn học dân gian”, chưa đủ điều kiện hình thành một nền văn học các dân tộc thiểu số bên cạnh nền văn học của người Kinh. Quan điểm này cũng nhận được sự đồng tình của tác giả Nông Quốc Bình trong bài viết Nhìn lại văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số và tác giả Đỗ Kim Cuông trong bài Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam trong qúa trình đổi mới đều khẳng định văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời cùng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. GS. Phan Đăng Nhật cũng lấy năm 1945 để làm mốc phân chia giữa văn học dân gian và văn học hiện đại các dân tộc thiểu số Việt Nam [59]. Có thể khẳng định rằng, dù mầm mống của văn học hiện đại các dân tộc thiểu số đã có từ trước nhưng nó chỉ thực sự ra đời cùng với Cách mạng tháng Tám 1945. Như vậy, việc lấy năm 1945 là mốc để khảo sát nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (trong đó không ngoại trừ thơ hiện đại dân tộc Tày) là quan niệm chung nhất, phổ biến nhất của các nhà nghiên cứu hiện nay.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...