Thạc Sĩ Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy​
    Information
    MS: LVVH-LLVH008
    SỐ TRANG: 134
    TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
    NGÀNH: VĂN HỌC
    CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
    NĂM: 2009



    Information


    DẪN NHẬP

    1. Lý do chọn đề tài

    Trong những năm chiến đấu chống Mỹ xuất hiện lớp nhà thơ mặc áo lính, tuổi
    đời còn rất trẻ. Như nhiều thanh niên thời bấy giờ, theo tiếng gọi của Tổ quốc, họ lên
    đường nhập ngũ. Trong số đó có Nguyễn Duy. Ông tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ,
    sinh năm 1948 tại Đông Vệ, Thanh Hóa. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều
    năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường Chín, Nam Lào, rồi sau này là mặt trận
    phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Nguyễn Duy làm thơ khá sớm nhưng đến năm
    1973, ông mới được độc giả biết đến với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ của
    tuần báo Văn nghệ: “Tre Việt Nam, Bầu trời vuông, Hơi ấm ổ rơm”. Từ đó Nguyễn
    Duy đã xuất bản nhiều tập thơ sáng giá trong tiến trình thơ đương đại Việt Nam: Cát
    trắng (1973), Phóng sự 30-4-1975 (1981), Ánh trăng (1984) .đã đưa ông lên vị trí là
    một trong những nhà thơ “đem lại vinh quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống
    Mỹ” (Trần Đăng Suyền) [117, tr.92], góp phần “in đậm dấu ấn của thời đại” (Lưu
    Khánh Thơ) [5, tr.4].
    Sau 1975, thơ Việt Nam trải qua một giai đoạn chững lại, tìm đường. Trong
    hoàn cảnh đó, Nguyễn Duy vẫn “bền bỉ kiên trì trong quá trình sáng tạo, cố gắng đi
    sâu vào mọi khía cạnh của hiện thực đời sống, hiện thực tâm trạng” (Lưu Khánh
    Thơ)[5, tr.4]. Với các tập thơ: Mẹ và em (1987), Đãi cát tìm vàng(1987), Đường xa
    (1989), Quà tặng (1990), Về (1994), Vợ ơi (1995) . cùng tuyển tập Thơ Nguyễn Duy
    Sáu & Tám, Nguyễn Duy đã thuộc “lực lượng đi tiên phong” (Trần Nhuận Minh) [4,
    tr.4] trong thời kì Đổi Mới với nhiều “chuyển đổi trong phương thức chiếm lĩnh hiện
    thực, trong các quan niệm mới về nghệ thuật, trong thế giới nghệ thuật có phần mới
    mẻ, khác lạ về con người, trong ý thức mới đối với tư cách chủ thể của nhà
    văn”(Phong Lê) [71, tr.344].
    Thơ Nguyễn Duy đã được chọn đưa vào chương trình giảng văn ở bậc phổ
    thông, giới thiệu ra nước ngoài, đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học
    đánh giá, công bố trên các báo chuyên ngành, được công chúng yêu thơ đọc và bình
    phẩm. Tuy nhiên, ngoài những bài viết đó và một vài luận văn cử nhân, vẫn chưa có
    những công trình nghiên cứu toàn diện về thơ ông. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Thế
    giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc công trình
    nghiên cứu của những người đi trước để nhằm góp thêm một cái nhìn khái quát về sự
    nghiệp thơ ca của nhà thơ Nguyễn Duy.

    2. Giới hạn đề tài

    2.1. Mục đích nghiên cứu

    Đặt Nguyễn Duy trong tiến trình thơ ca Việt Nam hiện đại, từ việc khảo sát
    nghiên cứu văn bản thơ, tìm hiểu hành trình sáng tạo của nhà thơ, chúng tôi hướng tới
    xác định cảm hứng chủ đạo và đặc điểm nghệ thuật thơ Nguyễn Duy về: ngôn ngữ,
    giọng điệu, đặc biệt là thể thơ lục bát. Từ đó khẳng định những đóng góp của ông -
    một tác giả có vị trí đáng kể trong đời sống thơ ca Việt Nam từ năm 1970 đến nay.
    “Đánh giá một tác giả văn học, cần xem tác giả ấy đã kế thừa được những gì
    trong truyền thống văn học quá khứ, của những người đi trước. Và phải xem họ đã
    đem lại một cái gì mới: một mảng hiện thực, một cách nhìn cuộc sống, một giọng
    văn, những đổi mới về thể loại” [74,tr.717]. Vì vậy, trong điều kiện và chừng mực
    nhất định, chúng tôi đối sánh thơ Nguyễn Duy với thơ của một số tác giả trước hoặc
    cùng thời như: Nguyễn Bính, Bùi Giáng, Hữu Thỉnh .để từ đó rút ra những nét riêng
    biệt ở thơ ông.

    2.2. Đối tượng nghiên cứu

    Nguyễn Duy sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau như: thơ, tiểu thuyết, bút kí,
    phóng sự, kịch thơ và sáng tác các loại lịch thơ, tranh thơ .nhưng với đề tài này, luận
    văn chỉ tập trung nghiên cứu thơ trữ tình của Nguyễn Duy. Cụ thể ở các tập thơ: Cát
    trắng (1973), Phóng sự 30-4-1975 (1981), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đãi
    cát tìm vàng (1987), Đường xa (1989), Về (1994), Thơ Nguyễn Duy Sáu & Tám
    (1994), Vợ ơi (1995), Bụi (1997), Tuyển tập thơ Nguyễn Duy (bản thảo do tác giả
    cung cấp).
    Bên cạnh việc khảo sát các tác phẩm trên, chúng tôi còn tiếp thu một cách chọn
    lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu đã có và những ý kiến
    của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính khách quan cho luận văn.
    3. Lịch sử vấn đề
    Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam từ những năm bảy mươi, Nguyễn Duy đã tạo
    ấn tượng nơi người đọc về một giọng thơ nhiều triển vọng. Có thể nói người có công
    phát hiện và giới thiệu thơ Nguyễn Duy đầu tiên là Hoài Thanh. Trải qua hơn một
    phần tư thế kỷ, đã có nhiều nhà phê bình, nghiên cứu nhận xét, đánh giá thơ Nguyễn
    Duy, có thể chia làm bốn nhóm: Một là loại bài tìm hiểu những bài thơ, tập thơ tiêu
    biểu. Hai là, loại bài nghiên cứu khái quát thơ Nguyễn Duy. Ba là, những bài phát
    biểu, trả lời phỏng vấn của chính nhà thơ về tác phẩm của mình. Bốn là, một số luận
    văn cử nhân nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi
    vào tìm hiểu nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Duy ở những phương diện và mức
    độ khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến
    nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến cảm hứng chủ đạo và đặc điểm
    nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.
    Để hình dung cụ thể, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi phân chia ra các
    nhóm ý kiến sau:


    3.1. Hướng tiếp cận về nội dung

    Trong những bài nghiên cứu đánh giá, thẩm bình về thơ Nguyễn Duy, nhiều
    tác giả đã có những phát hiện về nét riêng độc đáo đối với từng tác phẩm của ông. Cụ
    thể trong Hơi ấm ổ rơm, Vũ Quần Phương cho là “tấm lòng thơm thảo, nhường cơm
    xẻ áo của nhân dân ta” [99, tr.154]. Trong Đò Lèn, Trịnh Thanh Sơn cho là “những
    thước phim quay chậm” về nỗi gian truân của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi
    đã muốn trào nước mắt”)[112, tr.14]; Đỗ Lai Thúy thì cho là sự “giải cổ tích hóa”, là
    “cốt cách hiện đại” [138 ,tr 379-384]. Trong Ánh trăng, Nguyễn Bùi Vợi đã cảm
    “nỗi ăn năn nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người” [148, tr.7]. Ngồi buồn
    nhớ mẹ ta xưa, Đặng Hiển cho là “đã động thấu đến những tình cảm thiêng liêng
    nhất, sâu xa nhất và thân thương nhất của chúng ta - tình cảm đối với mẹ” [49, tr.34].
    Còn Lê Trí Viễn khi nói về bài Tre Việt Nam đã khẳng định đó là những biểu hiện
    của “phẩm chất con người” [147, tr.289]. Những bài nghiên cứu ấy đã chỉ ra cảm
    hứng trong thơ Nguyễn Duy xuất phát từ sự trân trọng, yêu thương, phát hiện ra vẻ
    đẹp của con người Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn, gian khổ đặc biệt là
    những gian khổ thấm đẫm máu, mồ hôi, nước mắt của người dân.
    Tập thơ của Nguyễn Duy được nhiều nhà phê bình chú ý là Ánh trăng- tác
    phẩm được nhận giải thưởng của Hội nhà văn 1984. Nhận xét về nội dung tập thơ
    này, Từ Sơn viết: “Tám mươi bài thơ chọn in trong hai tập Cát trắng và Ánh trăng
    chiếm số lượng lớn vẫn là những bài thơ viết về người lính, về những điều đã cảm
    nhận trên các nẻo đường chiến tranh .Nguyễn Duy đã đi nhiều nơi, đã tiếp xúc với
    nhiều người. Bao giờ anh cũng dành những tình cảm tốt đẹp nhất của mình cho đồng
    đội và cho những người dân bình thường” [116, tr.2]. Cùng ý kiến đó, Lê Quang
    Hưng cũng rất sâu sắc khi nhận định: Tiếng nói của Nguyễn Duy trong Ánh trăng
    “trước tiên vẫn là tiếng nói của một người lính, tiếng nói tìm đến những người lính-
    những đồng đội để sẻ chia, trò chuyện .Đúng như Nguyễn Duy tâm sự: anh luôn cảm
    thấy mình mắc nợ cuộc sống, mắc nợ những đồng đội. Các cảm giác đáng quí cũng
    là cái ý thức trách nhiệm ấy đã thôi thúc anh, nâng giúp anh viết ngày một nhiều,
    ngày một hay hơn về những người chiến sĩ” [58, tr.156]. Trên cơ sở đó, Lê Quang
    Hưng rút ra sự hấp dẫn của tập thơ: “Ánh trăng được nhiều bạn đọc yêu thích trước
    hết vì nó thực sự là một phần của một cuộc đời, là tiếng nói của một cây bút có trách
    nhiệm trước cuộc sống xây dựng và chiến đấu sôi động trên đất nước ta những năm
    qua” [58, tr.158].
    Tế Hanh cũng thể hiện sự trân trọng của mình khi nhận xét về tập thơ Ánh
    trăng của Nguyễn Duy. Trong bài “Hoa trên đá và Ánh trăng” đăng trên báo Văn
    nghệ số 15/1986, ông viết: “Đọc thơ Nguyễn Duy trước hết ta thấy anh là một người
    lính đã chiến đấu ở nhiều mặt trận. Hiện nay anh không phải là quân nhân nhưng
    những câu thơ anh viết về bộ đội, về cuộc đời quân nhân vẫn là những câu thơ thấm
    thía nhất” [40, tr.3]. Dù mỗi người nhìn nhận, đánh giá tập thơ này ở những góc độ
    khác nhau, nhưng nhìn chung các ý kiến trên đều thống nhất ở một điểm: cảm hứng
    để Nguyễn Duy viết là từ những tâm sự và trải nghiệm của chính bản thân nhà thơ-
    một người lính đã từng trải qua những địa danh trận mạc cũng là những địa danh của
    thi ca, một công dân có trách nhiệm sâu sắc đối với cuộc đời.
    Trong các bài nghiên cứu khái quát thơ Nguyễn Duy của Hoài Thanh, Lại
    Nguyên Ân, Nguyễn Thụy Kha, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Quang Sáng, Chu Văn
    Sơn, Vũ Văn Sỹ, Nguyễn Trọng Tạo, Đỗ Minh Tuấn, Phạm Thu Yến, các tác giả đều
    có khuynh hướng đi sâu tìm hiểu những nội dung cơ bản trong thơ Nguyễn Duy. Các
    bài viết này đã khẳng định thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy ngay từ khi mới
    xuất hiện là những cảnh vật, sự việc, con người bình thường trong cuộc sống, gần gũi
    với nhà thơ và với mọi người. Có thể nói, bài phê bình sớm nhất về thơ Nguyễn Duy
    là “Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy” của Hoài Thanh, đăng trên Báo Văn nghệ
    số 444/1972. Bài viết khẳng định: “Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen
    thuộc . Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những
    cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên . Đọc thơ Nguyễn Duy, thấy anh
    thường hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình .”
    [129, tr.5]. Cùng ý kiến đó, Lại Nguyên Ân trong bài “Tìm giọng mới thích hợp với
    người thời mình” cho rằng thơ Nguyễn Duy “nhạy cảm với cái gì ít ỏi, còm nhom,
    queo quắt, cộc cằn , đơn lẻ” [2, tr.11]. Trong bài “Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn
    Duy”, in trong phụ lục tập thơ Mẹ và em, Nguyễn Quang Sáng nêu ý kiến: “Ngoài
    mảng thơ về đề tài chiến trận, thơ Nguyễn Duy chủ yếu dành cho những đề tài muôn
    thuở: tình yêu, con người và đất nước quê hương .Trong thơ Duy có hầu hết gương
    mặt các miền đất với những cảnh sắc, thần thái riêng” [111, tr.91]. Cũng bình về
    những đặc điểm này Vũ Văn Sỹ có những nhận xét khá tinh tế: “Nguyễn Duy thường
    nắm bắt những cái mong manh nhưng vững chắc trong đời: chút rưng rưng của ánh
    trăng, một tiếng tắc kè lạc về giữa phố, một dấu chân cua lấm tấm ruộng bùn, một kỉ
    niệm chập chờn nguồn cội, một mùi thơm của huệ trắng trong đền, thoáng hư thực
    giữa người và tiên phật .Và rồi hồn thơ Nguyễn Duy neo đậu được ở đó” [124,
    tr.69]. Sau khi nêu những cảm nhận chung, Vũ Văn Sỹ đã mượn ngay câu thơ của
    Nguyễn Duy để kết luận về cảm hứng chủ đạo trong thơ ông: “Nguyễn Duy- người
    thương mến đến tận cùng chân thật” [124]. Và nếu như Nguyễn Đức Thọ chỉ chú ý
    một khía cạnh trong thơ Nguyễn Duy: “Có lẽ sau cụ Tú Xương, tôi chưa thấy ai ca
    ngợi vợ tài như Nguyễn Duy” [135, tr.82-90] thì Nguyễn Quang Sáng, một người bạn
    thân thiết với Nguyễn Duy, nêu nhận xét cụ thể hơn: “Nguyễn Duy gắn bó máu thịt
    với đất nước mình bằng tình cảm rất cụ thể với người dân .Thơ Nguyễn Duy có niềm
    tự hào chính đáng về nhân dân mình, cùng với nỗi buồn thương chính đáng” [111,
    tr.97]. Còn nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đưa ra một nhận xét có ý nghĩa khái
    quát: “Bao dung nên giàu có” [83, tr.280]. Nhìn chung các ý kiến đánh giá trên đã chỉ
    ra được nét riêng và độc đáo của thơ Nguyễn Duy là ông thường cảm xúc - suy nghĩ
    về những điều bình dị, cụ thể của đời thường. Đặc điểm này thể hiện trong thơ ông
    như một mạch thống nhất, xuyên suốt cả trong hoàn cảnh chiến tranh và hòa bình.
    Cùng tìm hiểu về nội dung thơ Nguyễn Duy, năm 2008, trong luận văn tốt
    nghiệp, sinh viên Nguyễn Thị Thu Hiền với đề tài “Cái tôi nội cảm tìm về cội nguồn
    trong thơ trữ tình Nguyễn Duy” đã đi sâu làm rõ một trong những khía cạnh nổi bật
    của thơ trữ tình Nguyễn Duy: cảm xúc về quê hương xứ sở, điệu hồn của dân tộc, về
    đạo đức truyền thống và những giá trị thiêng liêng cùng nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ
    tình. Tuy nhiên những vấn đề trên chưa được nghiên cứu sâu.

    3.2. Hướng tiếp cận về nghệ thuật
    Phương diện được các tác giả quan tâm nhiều nhất và có ý kiến tương đối
    thống nhất là thể loại. Bài “Tre Việt Nam” được nhiều nhà phê bình phân tích, đánh
    giá; có thể xem đây là một trong những bài thơ lục bát tiêu biểu của Nguyễn Duy.
    Văn Giá trong “Một lục bát về tre” nhận xét: “ Lựa chọn thể thơ 6-8, một thể thơ
    thuần chất Việt Nam, tác giả xử lý thật nhuần nhuyễn, trôi chảy, trau chuốt, không
    non ép, gượng gạo, vấp váp một chỗ nào. Trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ, phần
    các bài viết theo thể lục bát không phải là nhiều nhất nhưng anh vẫn được coi là một
    trong những nhà thơ hiện đại viết lục bát thành công nhất. Với tất cả những gì đạt
    được, anh đã góp phần đem lại một sắc điệu hiện đại cho thể thơ lục bát của dân
    tộc” [9, tr.93]. Và chính Nguyễn Duy, khi trả lời phỏng vấn trên báo Đại đoàn kết đã
    bộc bạch: “Những bài thơ lục bát là phần quý giá nhất của mình” [12, tr.14]. Lê
    Quang Trang khẳng định “Anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát” [141,
    tr.200]. Nguyễn Quang Sáng cũng cùng ý kiến đó khi cho rằng: “Nguyễn Duy vốn có
    ưu thế và trội hẳn lên trong thể thơ lục bát” [111, tr.91]. Nguyễn Thụy Kha: “Sẵn cái
    chất hóm hỉnh, dân dã, sâu sắc hơi chua cay chút chút, Duy quả là thiện nghệ trong
    cái trò “ 6&8” này” [61, tr.204]. Và nếu năm 1986, Lại Nguyên Ân còn e dè khi cho
    rằng: “Ngay cả những bài lục bát, ta cũng thấy có cái gì bên trong như muốn cãi lại
    vẻ êm nhẹ mượt mà vốn có của câu hát ru truyền thống” [2, tr.11] thì đến năm 1999,
    Vũ Văn Sỹ đã mạnh mẽ khẳng định: “Nguyễn Duy đã sử dụng lục bát để thuần hoá
    chất liệu cập nhật của đời sống. Lục bát trong tay Nguyễn Duy trở nên vừa êm ái vừa
    ngang ngạnh, vừa quen thuộc vừa biến hoá, “cựa quậy”. Làm thơ lục bát đến như
    Nguyễn Duy có thể xếp vào bậc tài tình” [124,tr.74]. Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong
    lời giới thiệu in ở đầu tập thơ “Nguyễn Duy- thơ với tuổi thơ” cũng đã chỉ ra sự đổi
    mới cách tân của Nguyễn Duy khi sử dụng thể thơ dân tộc: “Lục bát của Nguyễn Duy
    rất hiện đại. Câu thơ vừa phóng túng ngang tàng lại vừa uyển chuyển, chặt chẽ với
    một bút pháp khá điêu luyện. Nguyễn Duy là người có công trong việc làm mới thể
    thơ truyền thống này” [63]. Nguyễn Thị Thúy Hằng trong luận văn tốt nghiệp đại học
    năm 1999, với đề tài “Thơ lục bát của Nguyễn Duy” đã khảo sát Câu lục bát trong ca
    dao truyền thống và thơ lục bát của Nguyễn Duy. Từ đó, chỉ ra sự kế thừa những đặc
    điểm của ca dao và thơ truyền thống trong câu thơ Nguyễn Duy, nêu một vài điểm
    đổi mới trong thơ ông như: Quan niệm về thế giới và con người, hình thức trình bày
    thơ, cấu tứ và kết cấu ở một bài thơ lục bát .Có thể thấy, mỗi tác giả đánh giá thơ lục
    bát của Nguyễn Duy ở một khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung các ý kiến này
    đều thống nhất cho rằng thơ lục bát Nguyễn Duy thực sự có vị trí cao trong các sáng
    tác lục bát đương thời.
    Ngôn ngữ - vốn là một phương diện rất quan trọng trong việc tìm hiểu nghệ
    thuật thơ Nguyễn Duy nhưng lại chưa có sự thống nhất cao. Theo Nguyễn Quang
    Sáng: “Thơ Nguyễn Duy đượm tính dân tộc và nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian.”
    [111, tr.96], Phạm Thu Yến lại có ý kiến khác: thơ Nguyễn Duy là sự kết hợp giữa
    “ngôn ngữ đời thường” và ngôn ngữ “đậm màu sắc hiện đại” [152, tr.79 ]. Còn với
    Vương Trí Nhàn, thơ Nguyễn Duy là “bản hợp xướng của những chữ lạ” [83, tr.283].
    Hồ Văn Hải thì khẳng định: “Sáng tạo từ láy là điểm nổi bật nhất trong lục bát
    Nguyễn Duy” [44, tr.6 ].
    Phương diện được nhiều nhà nhiên cứu, phê bình quan tâm là giọng điệu. Khi
    bình bài “Tre Việt Nam”, GS.Lê Trí Viễn cho rằng: “Giọng điệu bài thơ là kể chuyện
    như kể chuyện cổ tích” [147, tr.289]. Năm 1986, trong bài viết “Tìm giọng mới thích
    hợp với người thời mình”, Lại Nguyên Ân tập trung tìm hiểu sự cách tân giọng điệu
    trong thơ Nguyễn Duy: “Thật ra thơ Nguyễn Duy nhìn chung vẫn nằm trong điệu trữ
    tình .Thơ Nguyễn Duy gần đây thường có thêm sắc giọng thủng thẳng, hơi ngang
    ngạnh và ương bướng”. Với Lại Nguyên Ân, giọng điệu đó làm cho thơ tình “bớt đi
    cái tha thiết héo ruột héo gan vốn thường có ở những khí chất yếu, những tâm trạng
    u sầu lối cũ” “tăng thêm cái khoẻ khoắn mạnh mẽ vốn là đặc điểm của con người
    thời nay”[2, tr.11]. Ngô Thị Kim Cúc khi đọc tập thơ “Bụi” của Nguyễn Duy đã
    nhận xét: “Từ bài đầu đến bài cuối hầu hết vẫn giống nhau ở một cách viết, vẫn cái
    giọng cà tửng cà khịa khiến người ta lúc đầu bật cười rồi sau đó thấm thêm một tí lại
    trào nước mắt” [13, tr.5]. Phạm Thu Yến thì cho rằng: khuynh hướng hài hước, trào
    lộng là một trong những biểu hiện của thi pháp ca dao và đã nhẹ nhàng phê bình
    Nguyễn Duy đôi khi “quá đà”, khiến người đọc phải “ái ngại” [152, tr.76-82].
    Trong các bài phê bình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy, thì bài viết “Nguyễn
    Duy - thi sĩ thảo dân” của Chu Văn Sơn là một bài viết công phu, cung cấp cho
    người đọc một cái nhìn tương đối rõ về con đường sáng tác của Nguyễn Duy. Ông
    gọi thế giới thơ Nguyễn Duy là “cõi chúng sinh thì hiện tại”: binh lửa và bụi bặm,
    bùn nước và gió trăng, nghèo đói và tiềm năng, tàn phá và gây dựng, xơ xác và nhen
    nhóm, bần bách và phù hoa”; nhân vật là “thập loại chúng sinh”, là bà, mẹ, cha ,vợ,
    con .đặc biệt là những con người không may mắn xuất hiện trong đời sống như “chú
    bé đi bụi khoèo mái hiên lắng nghe pháo tết, em điếm ế đón giao thừa gốc cây, bà bới
    rác nằm co ro gầm cầu .”. Từ đó biện giải “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân”, chỉ ra
    bản chất “thảo dân” ấy ở cảm hứng sáng tác, ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát
    của Nguyễn Duy [114, tr.38-53].
    Như vậy, qua các bài nghiên cứu, phê bình thơ Nguyễn Duy nêu trên, chúng tôi
    nhận thấy các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra một số
    đặc điểm về nội dung, nghệ thuật nổi bật của thơ ông. Nhưng nhìn chung, các bài viết
    này chỉ mới đi vào tìm hiểu một bài thơ, tập thơ hoặc chỉ dừng lại nghiên cứu một
    khía cạnh, một mặt nào đó trong thơ Nguyễn Duy, chưa có một công trình nào đi sâu
    nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống về thơ ông, để từ đó rút ra những đặc
    điểm khái quát về nội dung tư tưởng, nghệ thuật thơ Nguyễn Duy .Tuy nhiên đây là
    những nhận định hết sức đáng quý, gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề về cảm hứng,
    ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát của Nguyễn Duy trong việc thực hiện đề tài
    luận văn.

    4. Phương pháp nghiên cứu

    Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các phương pháp
    chủ yếu sau đây:

    4.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
    Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung.
    Chúng tôi sẽ vận dụng phương pháp này để phân tích câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài
    thơ có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm của luận văn.

    4.2. Phương pháp cấu trúc- hệ thống
    Quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng
    của thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy, luận văn chú trọng việc tìm ra những thành
    tố tạo nên chỉnh thể này và qui luật cấu trúc nên nó. Mọi đối tượng, mọi vấn đề khảo
    sát được chúng tôi đặt trong tương quan hệ thống, trong qui luật cấu trúc này.

    4.3. Phương pháp so sánh
    Mục đích của việc sử dụng phương pháp so sánh là để khẳng định nét độc đáo,
    đặc sắc của phong cách thơ Nguyễn Duy trong mối tương quan so sánh với các tác
    giả, tác phẩm khác ở cả hai chiều lịch đại và đồng đại. Với việc sử dụng phương pháp
    này chúng tôi có cơ sở để tìm hiểu, lí giải và xác định rõ những giá trị cũng như đóng
    góp của thơ Nguyễn Duy trên nhiều bình diện khác nhau.

    4.4. Phương pháp phân loại, thống kê
    Đối với từng thành tố trong chỉnh thể, đối với các yếu tố thuộc phương thức,
    phương tiện trữ tình trong thơ Nguyễn Duy, khi cần thiết luận văn thực hiện phân loại
    và thống kê qua các con số cụ thể.

    5. Đóng góp của luận văn

    Luận văn đã tìm hiểu thơ Nguyễn Duy trên bình diện của thế giới nghệ thuật.
    Trong quá trình tiếp cận “Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy”, người viết xem đó
    như một chỉnh thể nghệ thuật bao gồm nhiều phương diện có mối quan hệ gắn bó
    biện chứng với nhau. Với đề tài này, người viết mong muốn đóng góp thêm một
    hướng tiếp cận, nhằm tìm hiểu tương đối đầy đủ về sự nghiệp sáng tác thơ ca của
    nhà thơ Nguyễn Duy, thông qua việc nghiên cứu những vấn đề nổi bật như: Hành
    trình sáng tạo, cảm hứng chủ đạo và những đặc điểm nghệ thuật thơ ông, để từ đó
    khẳng định bản sắc riêng độc đáo của ngòi bút Nguyễn Duy và vị thế của ông trong
    tiến trình vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại.
    Người viết cũng hi vọng rằng những tư liệu và kết quả của luận văn sẽ góp một
    phần nhỏ vào việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập thơ Nguyễn Duy trong nhà trường
    được tốt hơn.

    6. Cấu trúc luận văn

    Phù hợp với lôgic nội tại của vấn đề đặt ra nghiên cứu, ngoài phần Dẫn nhập
    và Kết luận, luận văn được triển khai trong ba chương:

    Chương 1: Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Duy.

    Chương 2: Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Duy.

    Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.
    Cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.

    7. Giới thuyết khái niệm: “Thế giới nghệ thuật”

    Thế giới nghệ thuật là một cụm từ càng gần đây càng được sử dụng nhiều cả
    trong đời sống và trong học thuật. Nó được dùng khi con người có nhu cầu diễn đạt ý
    niệm về cái chỉnh thể bên trong của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình
    tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu .). Có nhiều cách lý giải về thế giới
    nghệ thuật. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: Thế giới nghệ thuật là một thế giới
    được tạo ra trong nghệ thuật. Nó hoàn toàn “khác với thế giới thực tại vật chất hay
    thế giới tâm lí của con người mặc dù nó phản ánh thế giới ấy” “Thế giới nghệ thuật
    thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các
    nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật .Mỗi thế giới nghệ thuật như một mô hình nghệ
    thuật trong việc phản ánh thế giới, ứng với một cách quan niệm về thế giới, một cách
    cắt nghĩa về thế giới” [39, tr.352]. Lê Ngọc Trà quan niệm: “Đối tượng nghiên cứu
    đầu tiên của thi pháp học là các yếu tố và cấu trúc tác phẩm văn học như ngôn ngữ,
    thế giới nghệ thuật, kết cấu và chủ thể nghệ thuật [140, tr.140]. “Thế giới nghệ thuật
    bao gồm nhân vật, cốt truyện và các chi tiết được mô tả, không gian, thời gian nghệ
    thuật .Nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tác phẩm, khám phá được tính chỉnh thể ấy
    có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu cách cảm nhận thế giới cũng như quan
    niệm tư tưởng của nhà văn” [140, tr.141]. Lê Tiến Dũng cho rằng: “Qua văn bản
    ngôn từ người đọc bắt gặp “bức tranh đời sống”, một thế giới như ta đã gặp đâu đó
    trong đời, lại như chưa gặp bao giờ .Người ta gọi lớp này là lớp thế giới nghệ thuật
    hay là lớp hình tượng”. “Mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học sáng tạo ra một thế giới
    nghệ thuật riêng. Tiếp nhận được thế giới này là cơ sở để hiểu tư tưởng - nghệ thuật
    của tác phẩm, cảm nhận được những gì nhà văn miêu tả, kí thác cũng như cái nhìn,
    quan niệm của nhà văn về con người, cuộc sống” [15, tr.11].
    Những quan niệm trên về thế giới nghệ thuật thiên về tác phẩm văn xuôi và nội
    dung được phản ánh trong tác phẩm. Từ góc độ thi pháp học chúng tôi quan niệm
    “hình thức mang tính nội dung và nội dung là một nội dung được xác định trong hình
    thức” [118, tr.9]. Nói cách khác thế giới nghệ thuật không đơn thuần là vấn đề hình
    thức mà trong tính chỉnh thể của nó, hình thức thẩm mĩ đó luôn được thẩm thấu,
    chuyển hóa trong một nội dung thích hợp. Thông qua thế giới nghệ thuật của một nhà
    thơ ta có thể phân biệt được chỗ sâu sắc, tư tưởng nghệ thuật độc đáo của nhà thơ ấy
    với nhà thơ khác. Vậy “Thế giới nghệ thuật” vừa là thế giới được tạo thành trong thơ
    qua cách cảm nhận riêng của tác giả vừa là hình thức biểu hiện của thế giới ấy, một
    hình thức thích hợp duy nhất để nội dung được biểu hiện trọn vẹn và đầy đủ.
    Với “Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy”, chúng tôi tập trung nghiên cứu
    cảm hứng sáng tác và phương thức biểu hiện trong thơ như: thể thơ, ngôn ngữ, giọng
    điệu . Từ đó thấy được phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Duy vừa mang nét riêng
    cá nhân vừa phản ánh trình độ nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, một thời đại.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...