Tài liệu Tháp Phật và truyền thống văn hoá Phật giáo Đại Việt

Thảo luận trong 'Kiến Trúc - Xây Dựng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Tháp Phật và truyền thống văn hoá Phật giáo Đại Việt

    Phần mở đầu
    Sự phát triển Phật giáo vào Việt Nam, tín ngưỡng thờ tự ăn nhập dần trong không gian văn hóa Việt. Chùa chiền là chốn thờ tự cũng dần định h́nh kiểu thức kiến trúc cho phù hợp với văn hóa bản địa, ban đầu chỉ là túp lều tranh rồi chuyển sang kiểu kiến trúc quy mô hơn. Khuôn viên ngôi chùa cũng được quy hoạch cho phù hợp với điều kiện sống và sinh họat tín ngưỡng. Tiếp nhận và cải biến là mô h́nh chung trong hệ thống kiến trúc Phật giáo Trung quốc cũng như Việt Nam. Cả thời ḱ trung đại, Phật giáo Việt phát triển không ngừng. Thời Lí - Trần, đạo Phật trở thành quốc giáo, phát triển và ảnh hưởng mạnh trong chốn cung đ́nh. Thời Lê - Trịnh về sau, không c̣n là quốc giáo, vị trí độc tôn nhường cho Nho giáo, tuy nhiên đạo Phật vẫn âm thầm và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong chính quyền Đại Việt cũng như được sự ưu ái của vua chúa quan lại triều đ́nh. Có thể nói, sự di cư chùa chiền từ chốn kinh ḱ - trung tâm đô thị về những nơi làng quê xóm nhỏ là xu thế thích hợp cho đạo Phật thời Đại Việt. Không gian rộng hơn, kiến trúc dần quy mô hơn, hệ thống tín ng ưỡng dân nhiều hơn và phát triển mạnh mẽ hơn. Trong điều kiện đó, kiến trúc cũng dần phù hợp với điều kiện mới. Chùa gồm hệ thống điện thờ, lầu chuông gác trống, hành lang giải vũ tạo nên những chỉnh thể trong một tổng thể kiến trúc và tín ngưỡng. Trong không gian của ngôi chùa, tháp chùa là thành phần không thể thiếu trong tổng thể kiến trúc.
    Chùa - Tháp là hai h́nh thức kiến trúc độc đáo biểu trưng cho Phật giáo: nơi nào có Chùa - Tháp th́ nơi đó có Phật giáo, nước nào nhiều Chùa - Tháp là nhân dân nước đó thâm tín Phật giáo, địa phương nào bảo tồn được cảnh chùa ngôi tháp cổ lâu đời th́ Phật giáo địa phương đó rễ sâu gốc bền trong tâm linh của nhân dân địa phương.
    Trong bài viết này tôi trực tiếp đề cập đến hệ thống tháp Việt được dựng lên trong các chùa chiền miền bắc bởi sự truyền nhập và phát triển của Phật giáo qua triều đại phong kiến nhà Trần.
    Chương I: Lịch sử tháp Phật.
    I. Khái niệm tháp.
    Giáo lư của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật nền kiến trúc Phật giáo, là tính giản dị, đại chúng và b́nh đẳng, từ bi. Các yếu tố đó giống như sợi chỉ xuyên suốt nối kết các công tŕnh kiến trúc như chùa tháp, Tăng viện trên hai ngh́n năm qua. Những ngôi chùa Phật luôn là trung tâm tôn giáo lẫn trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, từng góp phần tích cực làm phong phú thêm nền văn hóa địa phương nơi đạo Phật đặt chân truyền bá đến.
    Phát sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, ở miền Bắc Ấn Độ, đạo Phật xuất hiện như phản ánh ḷng bất b́nh của quần chúng đối với chế độ đẳng cấp hà khắc và quyền uy độc đoán của giới thống trị Tăng lữ Bà la môn. Tiếc rằng ngày nay, những công tŕnh kiến trúc Phật giáo huy hoàng của triều đại Asoka (271-231 trước Tây Lịch) nay không c̣n, nhưng những ǵ c̣n lại của những thế kỷ sau cũng đủ để mô tả sinh hoạt đạo Phật thời kỳ đầu đó.
    Bên cạnh các đền đài Bà la môn đồ sộ, mang nặng tính phô diễn nhưng khép kín, xuất hiện các công tŕnh tôn giáo khiêm tốn, dung dị nhưng mở rộng ra cho quần chúng nhân dân, không phân biệt đẳng cấp, nguồn gốc. Đó chính là kiến trúc chùa tháp.
    Vậy một câu hỏi đặt ra: Tháp là ǵ?
    Theo Từ Hải Từ điển của Trung Hoa có viết như sau: Tháp là phù đồ, nơi chôn xương Phật, cũng gọi là Tháp bà, Phù đồ (hay Phù tề); c̣n có một tên nữa là Phù họa hay Phật Đồ đều là tiếng Phật; nó do chữ “Stupa” hay “Pagoda” nói chệch ra. Theo nghĩa đạo Phật, nó là mồ mả, là linh miếu.
    Trong Phật Học Từ điển của Đoàn Trung c̣n viết: Tháp (stupa), Dagoba, Tháp bà, Đâu bà, Du bà, Tụy đô bà, Phù đồ đều là những tiếng âm theo Phạn. Thường đọc Tháp. Cũng đọc: Bảo tháp, Thất bảo tháp (nghĩa: Miếu, linh miếu). Đó là những toà cao, nhiều tầng, dưới lớn trên nhỏ, để thờ xá lỵ (tro tàn) của chư Phật hoặc của các nhà thành Đạo: Bồ tát, Duyên Giác, La Hán, hoặc để chôn di cốt của các vị thượng toạ các ngôi chùa.
    Ở đây chúng ta cần hiểu: Xá lị (Xá lợi) chính là xương c̣n lại của người chết được hỏa táng. Theo truyền thuyết, xương cốt của Phật Thích Ca hỏa táng ở Kusinara sáng láng như ngọc (ngọc xá lợi) được chia làm tám phần cho dân chúng tám khu dân cư và thành phố ở Ấn Độ để họ xây tháp thờ cúng.
    Tháp lại là những ngôi đền, dựng ra để thờ di tích, tro tàn, hài cốt của các nhau vua, hiểu theo nghĩa thế gian. Trong những tài liệu lịch sử Phật Giáo, có 4 ngôi tháp, mà các nhà tu hành nào đến hành hương chiêm ngưỡng, th́ được phước đức to. Đó là:
    · Tháp kỷ niện chỗ Phật đản sanh.
    · Tháp kỷ niệm chỗ Phật thành đạo nơi gốc cây bồ đề.
    · Tháp kỷ niệm chỗ Phật chuyển Pháp luân, bắt đầu thuyết pháp. Như đức Thích Ca chuyển pháp luân trong vườn Lộc (Lộc uyển), độ cho 5 vị Tỳ Kheo.
    · Tháp kỷ niệm chỗ Phật nhập diệt, nơi hai cây sa la, gần thành Câu Thi Na. Ngài Huyền Trang đời Đường trong khi đi Thiên Trúc, có viếng và chiêm bái bốn ngôi tháp nầy.
    Như vậy: Ban đầu tháp (stupa) dùng để chỉ cho những chỗ được kiến tạo để thờ xá lị của Phật, nhưng về sau nó được dùng lẫn lộn với chi đề (cetiya - điện thờ). Ma ha tăng kỳ luật quyển 33, và Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 11 quy định rơ: Phàm nơi nào có xá lị của Phật th́ gọi là tháp, không có xá lị của Phật th́ gọi là chi đề. Căn cứ vào đây th́ 8 ngôi tháp tôn trí xá lị của Phật tại Câu Thi Na, Ma Kiệt Đà v.v mới đích thực là stupa (tháp). Ngoài ra, các ngôi tháp nơi Phật đản sinh tại thành Ca Ti La Vệ, ngôi tháp chỗ Phật thành đạo dưới gốc cây bồ đề, ngôi tháp chỗ Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, ngôi tháp chỗ Phật hiện thần thông tại tinh xá Kỳ Viên, ngôi tháp có 3 cấp báu bên thành Khúc Nữ, ngôi tháp chỗ để kinh Đại thừa trong núi Kỳ Xà Quật, ngôi tháp tại rừng Am La Vệ, nơi Duy Ma Cật thị hiện bệnh, ngôi tháp chỗ Phật Niết bàn trong rừng Sala, (8 linh tháp lớn này) đều thuộc về chi đề.
    Nguyên uỷ về việc tạo tháp bắt đầu từ thời Đức Phật, Thập tụng luật quyển 56 chép: Trưởng giả Tu Đạt từng xin tóc và móng tay của Phật về xây tháp để cúng dường. Ngoài ra, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33 chép: Vua Ba Tư Nặc noi gương Phật, kiến tạo tháp Phật Ca Diếp để lễ bái, cúng dường hằng ngày.
    Sau khi Phật nhập diệt, Bà la môn Hương Tánh chia xá lị của Phật cho 8 nước; rồi các vị quốc vương rước xá lị ấy về nước xây tháp cúng dường. Đó là lịch sử xây tháp đầu tiên sau khi Phật Niết bàn. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện quyển 1 và Thiện kiến luật T́ bà sa quyển 1 đều chép rằng: khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua A Dục trị v́ nước Ma Kiệt Đà đă xây 84.000 ngôi bảo tháp trong vương quốc của ḿnh.
    1. Vài ngôi tháp tiêu biểu tại những nước Phật giáo.
    Nếu căn cứ vào ư nghĩa rộng răi của tháp mà nói th́ các nơi trên thế giới đă từng kiến tạo tháp rất nhiều. Chúng ta có thể kể đến một số ngôi tiêu biểu tại những nơi theo Phật giáo như sau:
    1.1. Ấn Độ: Tại Ba Hách Đặc (Bharhut) có một ngôi tháp di tích, thân tháp đă huỷ hoại hết, nhưng c̣n nền tháp và những tảng đá. Thời gian xây tháp này khoảng 200 năm trước Tây lịch.
    - Ngôi tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng kiến tạo khoảng 100 năm trước Tây lịch.
    - Tháp thờ tại động A Chiên Đa (Ajanta) và tại hang Na Tây Khắc (Nàsik).
    Vua Ca Nị Sắc Ca (kaniska) nước Kiền Đà La thuộc Bắc Ấn Độ xây một ngôi tháp cao 32m dưới núi Tuyết Sơn, khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đồng thời nhà vua cũng xây một ngôi tháp khác, gồm 13 tầng cao hơn 200m, mà theo sách Lạch Dương Già kư quyển 5 th́ đây là ngôi tháp đặc sắc nhất trong những ngôi tháp tại Tây Vức .
    [​IMG]
    [​IMG][​IMG]
    Sanchi - Kiến trúc Phật giáo cổ xưa nhất
    1.2. Tích Lan (SriLanka): Vua Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya Tissa) đă kiến tạo một số ngôi tháp tại Tháp Viên (Thùpàràma). Đó là những ngôi tháp xuất hiện sớm nhất trên Tích Lan. Ngoài ra, trên núi Vô úy (Abhayagiri) có một ngôi tháp cao 120m, kiến tạo vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đây là một trong những ngôi tháp cổ rất nổi tiếng tại Tích Lan.
    [​IMG]
    Colombo - Sri Lanka

    1.3. Miến Điện (Myanmar): Nước này có tháp Phật Đoan Đức Cung (Shwedagon) tại Ngưỡng Quang (Rangoon) cao 118m; tháp Tu Mă Đổ (S'emaudau) tại Tí Cổ (pegu) cao 102m. Toàn bộ mặt ngoài của tháp đều được thếp vàng và có 10 ngôi tháp nhỏ ở xung quanh.
    [​IMG]
    Shwedagon tại Yangon, Myanma

    1.4. Thái Lan: Tại cố đô Du Địa Á (Ayuthia) c̣n lưu lại không ít những ngôi tháp Phật cổ xưa. Ngoài ra, tại Băng Cốc (Bangkok) c̣n có tháp Phỉ Lạp thác mỗ ma yết đề (Phra - Thomma - Chedi) cao 125m, và ngôi tháp Thanh Tự (Wat Ching) đều là những ngôi tháp nổi tiếng thế giới.
    1.5. Lào: Nước Lào có tháp Duy Ân Thường (Chom - Vien chang), tháp Khoa Ma Nghinh (Chom - yong), đều là những ngôi tháp cổ trọng yếu hiện c̣n.
    [​IMG]
    Thạt Luông tại Viêng Chăn, Lào
    1.6. Trảo - Oa (Java): Nơi đây có Bà La phù đồ (Borobudur) là một ngôi tháp quy mô, bề thế; nền tháp h́nh tứ giác, chính giữa là một ngôi tháp lớn đứng thẳng lên tới đỉnh, và chu vi thân tháp gồm có 72 ngôi tháp nhỏ. Trong mỗi ngôi tháp nhỏ đều đặt tượng phật, toàn bộ kiến trúc có nhiều tầng cấp, h́nh dáng tương tự kim tự tháp. Chiều dài, chiều rộng mỗi bên 123m, và chiều cao 42m. Đó là thánh địa Phật giáo Đaị thừa hiện c̣n, rất to lớn và rất trang nghiêm.
    [​IMG]
    Hàng stupa h́nh chuông tại Borobudur - Indonesia.
    1.7. Trung Quốc: Tại Trung Quốc, thời đại tạo tháp được ghi nhận sớm nhất là thời Tam Quốc. Tương quyền vào năm Xích Ô thứ 3 (năm 240), vua Đông Ngô là Tôn Quyền sai Khương Tăng Hội đă chí thành cầu nguyện, cảm được xá lỊ xuất hiện. Do đó, nhà vua rất thán phục, cho xây tháp để cúng dường, gọi nơi này là chùa Kiến Sơ. Thế nhưng, theo Phật Tổ thống kỷ quyển 54 th́ ngôi tháp tại chùa Bạch Mă được xây vào năm Vĩnh B́nh thứ 10 (năm 67) đời vua Hán Minh Đế, mới là ngôi tháp sớm nhất của Trung Quốc. Về sau, sự tích các triều đại xây tháp vẫn c̣n tiếp tục. Vào năm Thái Khang thứ 2 (năm 281), đời vua Vơ Đế nhà Tây Tấn, Huệ Đạt ở huyện mậu, tỉnh Chiết Giang trông thấy một bảo tháp từ dưới đất hiện lên, cao độ 45m, rộng khoảng 22m. Do thế, ông bèn xây tháp tại ấy. Năm Huy B́nh nguyên niên (năm 516) đời Bắc Ngụy, Linh thái hậu là Hồ thị sai thợ thiền nghệ kiến trúc một ngôi tháp gỗ tại chùa Vĩnh Ninh, Lạc Dương, gồm 9 tầng, cao 320m, đứng cách xa một trăm dặm vẫn có thể trông thấy. Nhưng đáng tiếc là ngày nay ngôi tháp này không c̣n.Vào đời nhà Tùy, vua Tùy Dạng Đế đă v́ Đại sư Trí Khải mà xây một ngôi bảo tháp bằng gạch tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Ngôi tháp này h́nh lục giác, gồm 4 tầng, cao độ 74m. Vua Đường Thái Tông cũng từng theo lời thỉnh cầu của Đường Tam Tạng Huyền Trang mà xây một ngôi tháp gạch tại chùa Từ Ân, Tây An, cao 58m.
    [​IMG]
    Đại Nhạn Tháp - Trung Quốc
    1.8. Ni Bạt Nhĩ (Nepal): Xứ này có tháp Ô Nhă Mỗ Bố Na Đức (Snuyambhunàth) tại Gia Đức Măn Đô (Katmandu) rất lớn, h́nh dạng như cái bát úp.
    1.9. Tây Tạng: Tháp ở Tây Tạng thường được gọi là Lạt ma tháp, và đa số tháp ở đây đều có h́nh dáng nhỏ.
    1.10. Nhật Bản: Vào tháng 2 năm Kính Đạt Thiên hoàng thứ 14 viên quan đại thần Tô Ngă Mă Tử tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dă Khâu. Ở trên đầu chóp tháp tôn trí ngọc xá lị mà ông đă thỉnh được. Đến năm Suy Cổ Thiên hoàng thứ 15 (năm 606), Thánh Đức thái tử tạo một ngôi tháp 5 tầng tại chùa Pháp Long, đến nay vẫn c̣n. Đây là ngôi tháp gỗ cổ nhất thế giới.
    [​IMG] [​IMG]
    Chùa tháp Toji - Kyoto - Nhật Bản
    2. H́nh dáng của tháp:
    Về chủng loại của tháp rất phong phú, nếu dùng h́nh dáng để phân loại th́ ta có:tháp phú bát, tháp khám, tháp trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp ốc, tháp vô bích, , tháp Lạt ma, tháp nhiều tầng, tháp vuông, tháp tṛn, tháp h́nh lục giác, tháp h́nh bát giác, tháp đại, tháp đa bảo, tháp du kỳ, tháp Ngũ luân, tháp h́nh trứng, tháp vô phùng, tháp lâu các, tháp mật diêm, tháp kim cương bảo ṭa, tháp mộ .
    Trong các h́nh thức của tháp th́ h́nh thức tháp phú bát (bát úp) là xưa nhất. Theo luật Ma ha tăng kỳ quyển 33, và hữu bộ tùy nại da tạp sự quyển 18 th́ tháp phú bát gồm có các bộ phận sau đây cấu thành: thân tháp h́nh bát úp, đầu bằng có trụ h́nh bánh xe, tướng luân và bảo b́nh. Luật quy định, nếu dựng tháp thờ Phật th́ phải có đầy đủ h́nh thức kể trên.Nếu dựng tháp cho Độc giác Phật th́ không được an trí bảo b́nh. Nếu xây tháp cho vị A la hán th́ tướng luân không được nhiều hơn 4 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Bất Hoàn th́ tướng luân không quáv 3 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả nhất lai, th́ tướng luân không quá 2 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Dự lưu th́ tướng luân không quá 1 tầng.Nếu xây tháp cho người thiện trong phàm phu th́ phải xây bằng trên đầu và không được dùng h́nh thức tướng luân. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 41 c̣n ghi rơ: Vị chuyển luân thánh vương (như vị nguyên thủ của một đại cường quốc) cũng được xây tháp, nhưng không được dùng tướng luân (tầng tháp h́nh lục giác hay bát giác), và chỉ xây bên ngoài khuôn viên chùa. V́ vị này tuy có phước đức lớn nhưng chưa đoạn trừ hết 3 độc tham, sân, si.
    Nền của tháp theo thể thức Ấn Độ thời xưa th́ phần lớn làm h́nh tṛn. Nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam .th́ thường dùng tứ giác hoặc bát giác để cấu trúc.Thân tháp càng về sau, càng biến thành nhiều tầng. Vào khoảng thế kỷ thứ 3, thứ tư có tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15 tầng, 17 tầng, thậm chí đến 37 tầng.Nhưng theo Tỳ nại da tạp sự quyển 18 (Đ.24, tr.291c) qui định th́ số lượng các tầng tướng luân hoặc là 1,2,3,4 cho đến 13 tầng là tối đa. Tuy vậy, trên thực tế vẫn c̣n một số tháp nhiều tầng nổi tiếng, như tại chùa Tung Nhạc, núi Tung Sơn (Trung Quốc)có ngôi tháp gạch cao 15 tầng. Ở chùa Tiến Phúc, tại Tây An có ngôi tháp tiểu nhạn cao 15 tầng; và chùa Hương Tích, tại Tây An có ngôi tháp gạch cao 13 tầng.
    3. Chủng loại của tháp
     
Đang tải...