Sách Thành-cát-tư Hãn và đế quốc Mông Cổ Thành-cát-tư Hãn và đế quốc Mông Cổ

Thảo luận trong 'Sách Lịch Sử - Địa Lý' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Thành-cát-tư Hãn và đế quốc Mông Cổ
    1. Lược sử xứ Mạc Bắc
    Những cổ thư của Trung Hoa ít khi nhắc đến địa danh Mạc Bắc. Xứ Mạc Bắc là miền đất nằm ở phía bắc sa mạc. Sa mạc nói đến ở đây là sa mạc Qua Bích (Gobi), theo nghĩa Mông Cổ là “nơi trống rỗng”. Bởi vậy, định được địa giới của xứ sở bát ngát này không phải là dễ. Đại khái thì xứ Mạc Bắc phía đông sát tới biển Thái Bình bao la, phía tây tới sông Ob hoặc sông Irtych, phía bắc tiếp giáp với miền băng giá quanh năm tuyết phủ, mênh mông vô tận và vô chủ, ngày nay gọi là Tây Bá Lợi Á hoặc Xi Bia (Sibérie), phía nam là sa mạc Qua Bích khô cằn, nóng lạnh thất thường, với khoảng chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm rất cao.
    Xứ này có nhiều thảo nguyên kế tiếp nhau, rất thuận lợi cho việc di chuyển trên lưng ngựa, vì vậy, người dân xứ này, nam cũng như nữ, cưỡi ngựa giỏi vào bậc nhất nhân loại. Họ là dân du mục, nay đây mai đó, sinh sống bằng nghề chăn nuôi gia súc như bò, cừu, lạc đà, ngựa, nơi nào có cỏ cho gia súc ăn thì họ tới, nơi nào hết cỏ thì họ bỏ đi. Thời xưa, họ nuôi rất nhiều ngựa, bán cho người Tàu được nhiều tiền. Họ quen uống sữa tươi và máu tươi gia súc, ăn thịt, rất ít ăn tinh bột và rau quả.
    Cư dân xứ Mạc Bắc có thể tạm chia làm ba tộc: tộc Mãn Châu (race toungouse, mandchoue) ở miền đông, tộc Mông Cổ (race mongole) ở miền trung và tộc Đột Quyết còn gọi là Thổ (race turque) ở miền tây. Một thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời tiền chiến là Xuân Diệu đã ca ngợi thân mình óng ả của con gái Mạc Bắc bằng câu thơ “Ta yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng”. Xưa kia, họ chưa có quốc gia. Họ tổ chức thành những bộ lạc mà những ông tù trưởng có rất nhiều quyền, kể cả quyền sinh sát. Họ giành giật nhau những cánh đồng cỏ, cho nên chiến tranh xảy ra liên miên trên xứ sở này. Họ sống xen kẽ nhau, gần như lẫn lộn với nhau, nhất là người Mông Cổ và người Đột Quyết, cho nên cũng rất khó phân biệt. Ngôn ngữ của người Mông Cổ và ngôn ngữ của người Đột Quyết lại cũng rất gần nhau nên càng khó phân biệt. Người Mông Cổ không có chữ viết, phải mượn chữ viết của người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), một bộ lạc tộc Đột Quyết, để ghi chép sổ sách. Bởi vậy, có nhiều người đã ghép hai tộc Thổ và Mông Cổ làm một và gọi là tộc Thổ-Mông (race turco-mongole).
    Ngay từ thời cổ đại, người Tàu đã có thói cao ngạo, tự cho mình là văn minh nhất, là cái rốn vũ trụ, là ở trung tâm (Trung), là đẹp nhất (Hoa), và coi những dị tộc chung quanh đều là rợ (Tứ Di: Bắc Địch, Nam Man, Đông Di, Tây Nhung). Họ gọi chung những ngoại tộc phương bắc này là những rợ Bắc Địch, sau gọi chung là Hung Nô, là Thát Đát, và người châu Âu phiên âm là Huns, là Tartares. Họ cũng còn dùng danh từ riêng “Hồ” để gọi những tộc người này. Danh từ riêng ấy được người Tàu dùng ngay từ thời cổ đại trong một chủ trương hết sức hiểm độc: “Dĩ Di diệt Di, dĩ Di diệt Hồ” (Lấy người Di diệt người Di, lấy người Di diệt người Hồ).
     
Đang tải...