Thạc Sĩ Thác triển ánh xạ chỉnh hình kiểu Riemann

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 8/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Thác triển ánh xạ chỉnh hình kiểu Riemann

    DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
    GV : giáo viên
    HS : học sinh
    Nxb : nhà xuất bản
    SGK : sách giáo khoa
    SL : số lượng
    TLV : tập làm văn
    TL : tỉ lệ
    THCS : Trung học sơ sở
    VBTS : văn bản tự sự
    MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài
    Đổi mới phương pháp dạy học là cuộc cách mạng trong ngành giáo dục từ
    nhiều thập niên qua nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của HS, góp phần đào tạo
    những con người năng động, sáng tạo, những người chủ tương lai đất nước. Đổi mới
    phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn cũng nằm trong quỹ đạo chung ấy, nhất là từ
    chương trình và SGK mới thực hiện từ năm 2002 đến nay.
    Phương pháp dạy làm văn đã được trang bị trong quá trình đào tạo tại các
    trường sư phạm, được tập huấn trong các đợt bồi dưỡng thay SGK nhưng việc dạy
    TLV ở cấp THCS còn gặp rất nhiều khó khăn. GV tỏ ra lúng túng trong quá trình tổ
    chức, thiết kế giờ dạy, giải quyết việc phân tích mẫu để hình thành khái niệm, luyện
    tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho HS Đối với HS, thực tế cho thấy các em rất
    ngán ngại viết bài TLV và chưa có hứng thú học tập phân môn một cách tích cực.
    Thực tế đó đòi hỏi người dạy phải nỗ lực không ngừng để trang bị cho HS kiến thức
    lý thuyết làm văn, kĩ năng vận dụng tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản.
    Chương trình TLV THCS tập trung giảng dạy 6 kiểu văn bản gồm tự sự, miêu
    tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và hành chính công vụ. VBTS nổi lên như một
    phương thức quan trọng, xuyên suốt từ đầu cấp đến cuối cấp. Nhưng việc dạy và học
    tạo lập VBTS chưa được đầu tư đúng mức, có xu hướng xem nhẹ. GV và HS thường
    cho đây là thể loại đơn giản, được học từ chương trình Tiểu học, chỉ cần nghĩ gì viết
    ấy, hoặc thấy gì viết đó Tâm lí này gây sự chây lười trong việc rèn luyện tạo lập
    VBTS của HS.
    Tự sự là phương thức phản ánh đời sống chân thực. Vấn đề lý thuyết tự sự
    ngày càng được quan tâm phổ biến. Bởi vì lý thuyết tự sự cung cấp một bộ công cụ
    cơ bản, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu
    khác. “Tự sự học phải liên kết với các ngành khác để hiểu biết con người và hiểu biết
    sự vật.” [75]. Nghiên cứu lý thuyết của VBTS và các vấn đề liên quan khác là nhằm
    tìm hiểu đặc trưng VBTS và dạy HS tạo lập VBTS theo yêu cầu của nhà trường, nhất
    là ở cấp THCS. Tạo lập VBTS chính là cách bồi dưỡng khả năng quan sát cuộc sống,
    bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đẹp, góp phần hình thành nhân cách cho HS.
    Vận dụng kiến thức của tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản là nhiệm vụ của
    chương trình môn Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng
    tiếng Việt. Tạo lập VBTS như thế nào từ cách sử dụng từ ngữ, câu, đoạn văn, các
    phương tiện liên kết trở thành một vấn đề quan trọng giúp HS có kiến thức và kĩ
    năng làm tốt bài văn trong nhà trường THCS. Đề tài luận văn đặt trọng tâm ở việc rèn
    luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS có cơ sở khoa học từ vị trí, mục
    tiêu, quan điểm xây dựng và phát triển chương trình của bộ môn Ngữ văn.
    Từ những lí do trên, tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ của văn tự sự để rèn luyện
    cho HS kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS trở thành nhu cầu cấp thiết
    góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập bộ môn, hoàn
    thành tốt mục tiêu của môn học.
    2. Lịch sử vấn đề
    2.1. Sách giáo khoa
    SGK chương trình cũ (chương trình cải cách (1986), chương trình chỉnh lí
    (1995)) : TLV được coi là một phân môn trong môn Tiếng Việt, nhưng vẫn có SGK
    riêng mang tên TLV bên cạnh SGK Văn và Tiếng Việt. Phân phối chương trình quy
    định dạy TLV về Kể chuyện ở lớp 7, sau khi HS đã được học về Trần thuật, Miêu tả
    (lớp 6) Tường thuật (lớp 7). Các kiểu bài miêu tả, trần thuật, tường thuật, kể chuyện
    chỉ tập trung vào hai khối lớp đầu cấp 6, 7.
    Chương trình và SGK mới THCS (2002) được xây dựng trên quan điểm tích
    hợp ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và TLV. Theo tinh thần này, cả ba phân môn
    có mối liên hệ hết sức chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong mỗi bài
    học và xuyên suốt với các bài học khác trong chương trình. Phương châm của việc
    tích hợp là nhằm hướng cho HS hệ thống các tri thức riêng của từng phân môn Văn,
    Tiếng Việt, Làm văn và gắn kết những tri thức có quan hệ với nhau giữa các phân
    môn, giúp HS biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc cảm nhận, thẩm định
    cái hay, cái đẹp của văn bản, tạo lập văn bản, phục vụ cho hoạt động giao tiếp trong
    đời sống hàng ngày. Chương trình THCS được chia thành hai vòng, theo vòng tròn
    đồng tâm. Vòng một (lớp 6, 7) sẽ giữ vai trò cung cấp các kiến thức cơ bản. Vòng hai
    (lớp 8, 9), HS sẽ được học các kiến thức mới trên cơ sở những điều đã học một cách
    nâng cao, sâu sắc hơn. TLV về VBTS được bố trí cả ở hai vòng. Lý thuyết và kĩ năng
    làm bài văn Tự sự luôn được ôn luyện và nâng cao. Chương trình mới đã có sự cải
    tiến rõ rệt trong việc bố trí thời lượng dạy tạo lập VBTS, giúp HS có điều kiện ôn
    luyện, thực hành và nâng cao kĩ năng làm bài. Sự tập trung cho thể loại Tự sự ở các
    cấp lớp cũng thể hiện sự phong phú của thể loại này trong việc giảng dạy và học tập
    trong chương trình THCS.
    SGK Ngữ văn 10, tập I [35] - chương trình Trung học phổ thông (2006) tiếp
    tục hướng dẫn HS thực hành và rèn luyện viết văn tự sự ở mức độ cao hơn THCS.
    Điều đó cho thấy chương trình đã quan tâm và dành nhiều thời gian cho HS phổ
    thông học tập và rèn luyện tạo lập VBTS.
    Trong quá trình xây dựng chương trình, các bài dạy cung cấp cho HS kiến thức
    và hướng dẫn luyện tập cách làm bài nhưng vấn đề sử dụng ngôn ngữ như thế nào và
    cách thức rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ ra sao chưa được quan tâm đúng mức.
    2.2. Các sách tham khảo về ngôn ngữ tiếng Việt và dạy học TLV tự sự
    Từ điển Văn học (bộ mới) [29], Từ điển thuật ngữ Văn học [21], Từ điển Tiếng
    Việt [71] đã giải thích về thuật ngữ Tự sự trên nhiều phương diện từ định nghĩa, nêu
    đặc điểm, các phương tiện, biện pháp tự sự, hình thức tự sự, ngôi kể, người trần
    thuật Tự sự chỉ một trong ba phương thức biểu đạt của văn học (bên cạnh trữ tình
    và kịch). “Tự sự tái hiện hành động diễn ra trong thời gian và không gian, tái hiện các
    tiến trình biến cố trong cuộc đời các nhân vật Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ
    chức của trần thuật với ngôn từ chủ yếu làm chức năng thông báo về cái đã xảy ra từ
    trước ”[29]. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan .
    [21]. Khái niệm tự sự trong các sách trên đã được giải thích khá toàn diện và thống
    nhất, là cơ sở lý luận trong quá trình nghiên cứu về đặc trưng VBTS.
    R. Barthes và tự sự học (Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thuý, Tôn Quang Cường
    dịch từ bản tiếng Nga - http
    ://vanhoanghethuat.org.vn/sach/sudongdanh/rbathes.htm) [73] : Đỗ Lai Thuý giới
    thiệu về Roland Barthes (1915 –1980) là một nhà phê bình văn học, nhà văn hoá học,
    một trong những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái kí hiệu học Pháp. Tự sự học
    cấu trúc của R. Barthes được xác định như là sự phân tích các thành tố và những cơ
    chế của truyện kể, nó trình bày một câu chuyện qua hành động kể, sự kể. Tự sự học
    quan tâm đến truyện kể như một phương thức trình bày bằng ngôn từ. Nó trả lời câu
    hỏi : ai kể cái gì và như thế nào ? Tác phẩm tự sự học tiêu biểu của R. Barthes và của
    cả tự sự học cấu trúc nói chung là Đường vào phân tích cấu trúc truyện kể. Sau phần
    nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể, mục một trình bày ngôn ngữ các VBTS với
    đặc điểm chủ yếu là vượt ra giới hạn của câu. Theo quan điểm cấu trúc, bất cứ VBTS
    nào cũng đều được xây dựng theo mô hình của câu, bất cứ một truyện nào cũng là
    một câu lớn và câu kể chính là một sự tỉnh lược của một câu nhỏ. Các “chủ thể” lẫn
    cụm chủ vị trong VBTS cũng đều tuân thủ quy tắc cấu tạo câu. Nhưng giữa câu ngôn
    bản tồn tại các mối quan hệ đồng đẳng khi lưu ý đến mặt hình thức của chúng. Những
    mục tiếp theo về chức năng, hành động, tường thuật, hệ thống VBTS đã được đề cập
    chi tiết. Barthes đã đi tìm định nghĩa cấu trúc về nhân vật, vấn đề chủ thể, tình huống
    kể, và đưa ra các cấp độ của từng đơn vị nghiên cứu. Các vấn đề mà Barthes đặt ra
    có giá trị phương pháp luận khi nghiên cứu về VBTS và rèn luyện các kĩ năng tạo lập
    VBTS.
    Văn miêu tả và kể chuyện – Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn
    Quang Sáng – Nxb GD 2001 [39]. Sách ghi lại những kinh nghiệm quý báu của các
    nhà văn có sở trường về miêu tả và kể chuyện. Những đặc điểm của bài văn kể
    chuyện như nhân vật, cốt truyện, tình huống, tình tiết đã được các tác giả cụ thể hóa
    bằng những mẩu minh họa sinh động. Các nhà văn cũng lưu ý về nghệ thuật kể
    chuyện, nhất là kĩ năng mở bài và kết thúc câu chuyện [39, tr.23-38]. Nhà văn Vũ Tú
    Nam đưa ra kinh nghiệm quan sát thiên nhiên và loài vật và nhấn mạnh nội dung phải
    được thể hiện một cách tự nhiên, dung dị qua các chi tiết sinh động của cảnh và vật
    đồng thời dùng câu chữ cho chính xác, sinh động, gợi cảm [39, tr.7-8]. Nhà văn Phạm
    Hổ đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho một bài kể chuyện có các tình huống hợp lý,
    đúng sự thật, làm cho người đọc, người nghe tin là có thật. Nhà văn Bùi Hiển thì nêu
    kinh nghiệm viết văn kể chuyện của mình là sự quan sát, xuất phát từ tình cảm chân
    thành, chi tiết hợp lý, phù hợp với lô gích tâm lý. Các điều kiện không thể thiếu cho
    bài văn kể chuyện là câu chuyện phải tự nhiên, sự việc được coi như có thể xảy ra
    thực và liên kết các sự việc trong chuyện sao cho câu chuyện ý vị, hấp dẫn, nhiều
    kịch tính [39, tr.39-60]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đặt vấn đề về quan sát,
    không chỉ quan sát bằng mắt mà bằng tấm lòng, nắm bắt chi tiết quý báu từ đời sống
    và đưa vào trong tác phẩm [39, tr.61-66] Những kinh nghiệm thực tiễn của các nhà
    văn – những người viết văn chuyên nghiệp đã giúp ích GV rất nhiều trong quá trình
    dạy HS làm văn theo yêu cầu, mục tiêu của nhà trường, đồng thời giúp HS sáng tạo
    một cách tự tin khi tạo lập VBTS.
    Sách Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS hệ Cao đẳng Sư phạm (Lê A –
    Nguyễn Trí – NXBGD – 2001) [1, tr.167-214] : Sách đã hướng dẫn cụ thể từ “Khái
    quát về văn kể chuyện” đến “Phương pháp làm bài văn kể chuyện” và các bài tập
    thực hành, trang bị cho sinh viên những kiến thức khá toàn diện về chương trình
    giảng dạy và về văn kể chuyện. Từ việc nêu vai trò của văn kể chuyện nói chung, văn
    kể chuyện được dạy trong nhà trường, đặc điểm văn kể chuyện và cách phân loại, các
    tác giả đã đưa các ví dụ minh hoạ và phân tích chi tiết. Phần “Phương pháp làm bài
    kể chuyện” gồm các bước tìm ý, chọn ý và xác định ý nghĩa cho câu chuyện, lập dàn
    ý, viết bài văn Ở phần viết bài văn, các tác giả đã có chú ý đến mở đầu và kết thúc
    câu chuyện, đến viết lời kể (giới thiệu, thuyết minh) về nhân vật và sự việc, miêu tả
    trong văn kể chuyện và chú ý đến ngôi kể. Các phương pháp này nhằm phục vụ cho
    việc giảng dạy văn kể chuyện trong chương trình của nhà trường hiện hành lúc bấy
    giờ. Những vấn đề về lý thuyết được đề cập khá chi tiết. Vấn đề rèn luyện kĩ năng sử
    dụng ngôn ngữ cho HS chưa được đề cập.
    Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn – Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Quang
    Ninh – Trần Ngọc Thêm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội (1985) [7] trình bày một cách tinh
    giản những vấn đề và kết quả nghiên cứu hiện có trong lĩnh vực ngữ pháp văn bản và
    dạy làm văn như một ứng dụng và thiết thực nhất của ngữ pháp văn bản. Các tác giả
    đã đưa ra một số vấn đề cơ bản của ngữ pháp văn bản như lĩnh vực trên câu, sự ra đời
    của ngữ pháp văn bản, liên kết câu, chỉnh thể trên câu đoạn văn. Đặc biệt trong “Thay
    phần kết luận, các tác giả đã “thử ứng dụng ngữ pháp văn bản vào việc dạy làm văn
    và giảng văn”. Phần ứng dụng này còn trình bày còn dè dặt và sơ lược [7, tr.144-151]
    một số ứng dụng, việc ứng dụng các kiến thức tiếng Việt trong dạy TLV chưa đặt
    thành trọng tâm.
    Phương pháp dạy học tiếng Việt - Lê A chủ biên, Nguyễn Quang Ninh, Bùi
    Minh Toán, NXB GD, 2003, chương 7 trình bày phương pháp dạy học Làm văn [2,
    tr.185-238]. Các tác giả đã cung cấp một số tiền đề lý thuyết của việc dạy làm văn.
    Phương pháp dạy học Làm văn đề cập đến phương pháp dạy lý thuyết, phương pháp
    dạy thực hành, phương pháp ra đề làm văn, phương pháp chấm và trả bài làm văn.
    Phần cuối chương là một số kĩ năng làm văn cần rèn luyện cho HS gồm sáu kĩ năng.
    Đó là kĩ năng xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương hướng triển khai bài
    viết, kĩ năng lập ý, kĩ năng viết đúng theo dàn ý, kĩ năng lập luận, kĩ năng hành văn,
    kĩ năng hoàn thiện bài viết. Ở kĩ năng hành văn, các tác giả đặt vấn đề : “Có thể gộp
    vào kĩ năng hành văn cả những năng lực sử dụng các đơn vị ngôn ngữ ở HS. Đó là kĩ
    năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn” [2, tr.236]. Vì khi HS làm văn, về cơ bản, chỉ chú
    ý chạy theo nội dung, bám sát các ý, chưa quan tâm tới việc lựa chọn phương tiện thể
    hiện nội dung đó như thế nào một cách đầy đủ. Hoặc trong bài viết có ý, có nội dung
    nhưng do vốn từ ít, nắm không vững các kiểu kết cấu ngữ pháp của câu, hoặc do ít
    được vận dụng, ít được luyện tập nên ý không thoát và lời không đạt. Tuy không
    trình bày các phương pháp dạy cụ thể cho từng kiểu văn bản, các tác giả cũng đã đề
    cập đến một số kĩ năng cần rèn luyện cho HS. Đây là nội dung mà đề tài luận văn
    hướng đến.
    Hướng dẫn dạy TLV lớp 7 – Trần Đình Sử – Vũ Nho – Nguyễn Trí, Nxb GD
    (1998) [56] : sách có tính chất tham khảo với mục đích giúp HS nắm vững lý thuyết
    cơ bản, tăng cường kĩ năng thực hành. Phần lý thuyết trình bày ngắn gọn, cụ thể lý
    thuyết kiểu bài và cách làm bài kể chuyện. Phần thực hành gồm nhiều đề cho HS
    luyện tập. Sau đó là các bài kham khảo TLV. Sách đã cung cấp cho HS một hệ thống
    đề, dàn ý, những bài văn tham khảo, giúp HS có một số tư liệu cần thiết trong quá
    trình làm TLV. Tuy nhiên, sách cũng chưa đặt vấn đề hướng dẫn HS sử dụng ngôn
    ngữ, rèn các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS như thế nào trong quá trình viết bài
    văn kể chuyện.
    Phát triển ngôn ngữ cho HS phổ thông - Trương Dĩnh - Nxb Đà Nẵng (2000)
    [17] đề cập ý nghĩa, nội dung, nguyên tắc, phương pháp cụ thể đối với việc phát triển
    ngôn ngữ, khai thác các biện pháp rèn luyện từ chính âm đến từ ngữ, ngữ pháp,
    phong cách với các mô hình và ví dụ cụ thể. Các quan điểm hiện đại về dạy học tiếng
    Việt như các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ngôn ngữ và nhân cách, ngôn ngữ
    và giao tiếp được dẫn giải dễ hiểu. Tập sách chưa đặt vấn đề về rèn luyện và phát
    triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong một phương thức tạo lập văn bản, cụ thể là
    VBTS.
    Các sách tham khảo khác : Những bài làm văn tự sự và Miêu tả 6 –Nguyễn
    Quang Ninh – Nxb Giáo dục 2005 [44] ; Hướng dẫn TLV 6 - Vũ Nho chủ biên –
    Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Nga, Trần Thị Thành –– Nxb Giáo dục 2004 [41] ; Rèn
    kĩ năng làm văn tự sự và miêu tả 6 - Đoàn Thị Kim Nhung, Phạm Thị Nga –Nxb Đại
    học quốc gia TP Hồ Chí Minh 2006 [42] ; Tư liệu dạy Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Đỗ Ngọc
    Thống– Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [61] ; Các dạng bài TLV và cảm thụ thơ văn 6, 7,
    8 , 9 - Cao Bích Xuân –– Nxb Giáo dục 2003- 2006 [69] ; Một số kiến thức, kĩ năng
    và bài rập nâng cao Ngữ văn 6, 7, 8, 9 - Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng –
    Nxb Giáo dục 2003 – 2006 [23] và các tác giả khác với các quyển những bài làm văn
    chọn lọc, những bài làm văn hay các lớp 6, 7, 8, 9, Đây là các sách bài tập và tham
    khảo theo chương trình SGK mới 2002. Nội dung trình bày của các sách trên có
    những điểm chung là tìm hiểu khái quát về tự sự và đặc điểm của văn tự sự, các kiểu
    bài tự sự thường gặp, những điều cần lưu ý, phương pháp làm bài văn tự sự, các bài
    tập rèn luyện và một số bài văn mẫu. Tuy nhiên cũng có rất nhiều sách chỉ cung cấp
    cho HS, GV và phụ huynh những bài văn mẫu mà không định hướng phương pháp
    cũng như rèn những kĩ năng hình thành năng lực viết VBTS cho HS.
    Qua các tài liệu tham tham khảo, khái niệm và đặc điểm về văn tự sự được
    trình bày khá thống nhất, luận văn kế thừa thành quả nghiên cứu vào việc tìm hiểu
    đặc điểm của VBTS. Việc rèn luyện về kĩ năng sử dụng ngôn ngữ được trình bày
    lồng ghép trong các yêu cầu, phương pháp làm bài văn tự sự, chưa đặt thành vấn đề
    cụ thể để hướng dẫn HS rèn luyện.
    Đặc trưng của VBTS được xếp vào loại các văn bản nghệ thuật, bản thân nó
    vốn là một loại văn bản vừa mang tính thực tế vừa có tính sáng tạo cao. Đưa vào
    chương trình giảng dạy trong nhà trường, quá trình rèn luyện viết VBTS không chỉ
    cần thiết có các phương pháp đi từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao , mà còn chú
    trọng cho HS cách dùng từ ngữ, câu, liên kết câu cũng như những định hướng đúng
    để tạo lập được VBTS đạt yêu cầu cao Đây là một lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều
    hứa hẹn, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn, giúp HS có kĩ năng làm bài,
    đồng thời tạo sự yêu thích học văn trong HS, tạo cơ sở để bồi dưỡng và nâng cao
    năng lực của HS trong việc tạo lập văn bản, nhất là VBTS.
    Dạy tạo lập VBTS chú ý rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ thể hiện rõ quan điểm
    dạy học tích hợp của chương trình Ngữ văn mới. Luận văn kế thừa những nghiên cứu
    về phương pháp dạy TLV và tiếng Việt của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo đồng
    thời nghiên cứu về nội dung, chương trình và soạn giảng một số bài dạy tiêu biểu của
    chương trình nhằm rèn luyện kĩ năng làm bài cho HS, phát huy năng lực sử dụng
    tiếng Việt cho HS trong tạo lập VBTS.
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
    - Mục đích của luận văn là nhằm trang bị thêm cho GV một số cách thức cụ
    thể, khả thi về phương pháp dạy TLV tự sự đạt hiệu quả và giúp HS thực hành bài
    văn tự sự một cách tự tin, đúng yêu cầu, sáng tạo, sử dụng ngôn từ chuẩn xác, kể
    chuyện hấp dẫn Luận văn thiết kế một số bài giảng chú trọng đến việc rèn luyện kĩ
    năng sử dụng ngôn ngữ trong tạo lập VBTS cho HS THCS. Từ thực tiễn học tập của
    HS, luận văn tìm giải pháp và đề xuất một số kiến nghị cho việc giảng dạy tạo lập
    VBTS ở chương trình THCS đạt kết quả, nhằm góp phần đổi mới phương pháp giảng
    dạy TLV, phục vụ cho việc giảng dạy chương trình và SGK mới.
    - Nhiệm vụ của luận văn là ứng dụng lý thuyết tự sự trong việc soạn giảng các
    bài dạy TLV tự sự, chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS. Để
    thực hiện nhiệm vụ trên, tác giả luận văn đã tiến hành dự giờ, khảo sát thực tế giảng
    dạy và học tập về VBTS của GV và HS ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu
    những thuận lợi khó khăn từ chương trình SGK, từ GV, HS, đối với việc dạy tạo
    lập VBTS ; thiết kế giáo án và ghi nhận những việc đã làm được và chưa làm được
    trong việc dạy thể nghiệm đồng thời đề xuất các phương pháp giảng dạy tạo lập
    VBTS có chú trọng rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu là các bài dạy trong SGK và sách GV lớp 6, 7, 8, 9 về
    tạo lập VBTS cấp THCS, các tiết dạy của GV về tạo lập VBTS và các bài viết TLV
    tự sự của HS một số trường ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
    - Phạm vi nghiên cứu là chương trình TLV tự sự THCS, cụ thể ở các lớp 6, 7,
    8, 9 phân bố trong học kì I.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Từ mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu nghiên cứu trên, chúng tôi vận
    dụng các phương pháp sau trong luận văn :
    5.1 Phương pháp nghiên cứu liên ngành : vận dụng và kế thừa thành tựu
    nghiên cứu của nhiều ngành : ngôn ngữ học, nghiên cứu văn học, giáo dục học, lý
    luận văn học, tâm lý học, trong đó đặc biệt chú ý đến việc vận dụng phương pháp
    giảng dạy TLV và Tiếng Việt trong tạo lập VBTS. Luận văn tìm hiểu chương trình
    giảng dạy về TLV tự sự trong nhà trường, tham khảo các tài liệu về lý thuyết văn tự
    sự, về phương pháp giảng dạy TLV và Tiếng Việt qua các sách, báo, tạp chí chuyên
    ngành ngôn ngữ, tạp san, báo cáo chuyên đề
    5.2 Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn : dự giờ GV giảng dạy các tiết
    về tạo lập VBTS, điều tra, thăm dò, phỏng vấn các GV THCS ở quận 6 để tìm hiểu
    những thuận lợi và khó khăn của chương trình giảng dạy cũng như việc tiếp thu, thực
    hành làm văn tự sự của HS.
    5.3 Phương pháp thống kê : thống kê các lỗi sai từ bài làm của HS trong việc
    dùng từ, dùng câu, viết đoạn, viết VBTS.
    5.4 Phương pháp thực nghiệm : thực hành soạn giảng một số bài dạy về tạo lập
    VBTS trong chương trình chú trọng đến rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS.
    5.5 Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá : tổng hợp các vấn đề lý thuyết
    của VBTS ; phân tích nguyên nhân lỗi sai của HS từ kết quả thống kê bài làm và
    đánh giá những đóng góp của luận văn.
    6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
    Cơ sở khoa học : Mục tiêu của môn Ngữ văn cấp THCS là hoàn thiện kiến thức
    cơ sở về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt ; cung cấp kiến thức về văn bản học, lí luận
    văn học ; hình thành ở HS năng lực tiếp nhận và tạo lập các kiểu VBTS, miêu tả, biểu
    cảm, lập luận, thuyết minh và hành chính - công vụ. Luận văn thể hiện sự tích hợp
    giữa lý thuyết TLV và đặc điểm ngôn ngữ của VBTS để rèn luyện kĩ năng sử dụng
    ngôn ngữ trong VBTS, vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích
    cực, chủ động trong hoạt động dạy học TLV đáp ứng yêu cầu giao tiếp, phát huy
    năng lực sử dụng tiếng Việt làm công cụ để giao tiếp và tư duy.
    Cơ sở thực tiễn : luận văn được thực hiện theo chương trình giáo dục phổ
    thông cấp THCS và SGK mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo được áp dụng đại trà từ
    năm 2002 đến nay. Luận văn khảo sát thực tế giảng dạy của GV môn Ngữ văn và
    chất lượng học tập bộ môn của HS THCS ở Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh năm
    học 2006 -2007.
    7. Cấu trúc luận văn :
    Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương :
    Chương I : Đặc trưng VBTS và việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong
    tạo lập VBTS cho HS THCS.
    Chương II : Vấn đề dạy học tạo lập VBTS ở chương trình THCS.
    Chương III : Phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HS THCS
    trong tạo lập VBTS.
    Tài liệu tham khảo.
    Phụ lục.
    ▪ Phiếu điều tra GV.
    ▪ Thống kê kết quả điều tra.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...