Tài liệu Tập tục ma chay- cưới hỏi của Người Nùng An Tại xã Phú Sen, huyện Quảng Uyên- Cao Bằng

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tập tục ma chay- cưới hỏi của Người Nùng An Tại xã Phú Sen, huyện Quảng Uyên- Cao Bằng


    LỜI MỞ ĐẦU

    Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (gồm có 54 dân tộc), mỗi dân tộc có những nét văn hóa truyền thống riêng được truyền từ đời này sang đời khác tạo nên một bức tranh văn hóa phong phú đa dạng. Những nét văn hóa truyền thống ấy gắn liền với lịch sử của tộc ngườì. Trên địa bàn cư trú và hoàn cảnh sống nhất định. Tập tục ma chay cưới xin là những nét văn hóa đặc sắc truyền thống của dân tộc. Từ xa xưa người Việt Nam ta đã rất coi trọng việc dựng vợ gả chồng, thờ cúng tổ tiên. Đó là những việc hệ trọng nhất của đời người. Dân tộc Nùng An mà chúng tôi tìm hiểu tại xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng có tập tục ma chay cưới xin vừa có những nét chung với nền văn hóa chung của người Việt, vừa có những nét riêng đặc sắc.
    1. Tập tục cưới xin (Hỉ sự)
    Mỗi con người sinh ra và lớn lên đánh dấu sự trưởng thành của mình bằng việc lập ra đình. Thông qua đó con người xây dựng một cuộc sống riêng mang tính chất gia đình trong cộng đồng và xã hội. Việc lập gia đình là một chuyện hệ trọng, lễ cưới trăm năm mới có một lần. Người Nùng An xưa kia đối với việc lấy vợ lấy chồng theo quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy khi về nhà chồng, người vợ như là một người nô lệ, làm hết các công việc trong gia đình nhà chồng, bị đánh đập bị gò ép mang đậm tính chất phong kiến.
    Ngày nay do sự ảnh hưởng của nền văn hóa chung trong cộng đồng dân tộc Việt. Do những chính sách của nhà nước, và nhận thức của con người ngày càng cao. Những tập tục cổ hủ lạc hậu ấy của Người Nùng An không còn nữa nhưng nó vẫn mang một nét gì đó truyền thống. Những năm gần đây (khoảng mười năm trở lại đây). Các quan niệm cha mẹ đặt đâu con nằm đấy giờ đã không còn, hôn nhân hoàn toàn dựa trên tình yêu nam nữ, phụ nữ khi về nhà chồng không còn bị đối xử thậm tệ như trước, vai trò của người vợ trong gia đình được nâng cao, những mặt tích cực đó được thể hiện ngay trong việc tổ chức lễ cưới - lễ kết hôn. Một cặp nam nữ đến được với nhau, tiến tới kết hôn trở thành vợ chồng, phải trải qua nhiều giai đoạn và nhiều nghi thức.
    1.1. Giai đoạn tìm hiểu
    Trai gái trong làng trong bản. Tìm hiểu nhau qua những dịp lễ hội, những buổi liên hoan, hay qua những phiên chợ như dịp liên hoan gặt mùa, đón cơm mới, lễ tết thanh minh ở đó họ trò chuyện đưa ma những cử chỉ lôi cuốn bạn tình đặt sự khởi đầu cho những cuộc hò hẹn, yêu đương. Trong quãng thời gian này người con trai chủ động đến tìm người con gái, chủ động trong việc dẫn dắt bạn tình của mình vòa cuộc trò chuyện giữa hai người.
    1.2. Lễ ăn hỏi
    Khi đôi trai gái, đã tìm hiểu nhau và đã đủ tuổi kết hôn, họ có quan hệ yêu đương, muốn đi tới kết hôn, việc đầu tiên đó là làm lễ ăn hỏi. Kết hôn là chuyện đời người, chuyện trăm năm nên được chuẩn bị rất chu đáo. Khi tiến hành lễ ăn hỏi, phải chọn ngày, giờ. Chọn giờ tốt ngày đẹp đến ăn hỏi. Đồng thời trong lễ ăn hỏi cũng chọn ngày đề tiến hành hôn lễ. Hai bên gia đình xắp xếp đồ cưới, chuẩn bị cho lễ cưới.
    1.3. Trong lễ cưới
    Sau khi làm lễ ăn hỏi xong hai bên gia đình định ngày cưới và chuẩn bị các đồ lễ cho ngày cưới.
    1.3.1. Đón dâu
    - Lễ vật nhà chồng đến đón dâu cần một con gà thiến to đi kèm với đó là những lễ vật khác như: Bánh trái, hoa quả, gánh gạo, gánh ngô con gà thiến to dùng để làm đồ cúng.
    - Khi đón dâu người chồng không đến đón, mà để người khác đến đón, thường là hai cô gái, có người thầy mo đến cùng để làm thủ tục đón dâu và làm các lễ cúng bái bên nhà vợ.
    - Khi đón dâu, làm lễ cúng tổ tiên bên nhà vợ, xin người về bên ấy (nhà chồng).
    1.3.2. Con gái về nhà chồng
    - Con dâu khi được đón đến nhà chồng: Ăn một bữa cơm đầu nhập gia trở thành người bên nhà chồng. Ăn bữa cơm đầu xong, có người dẫn đi làm một công việc gì đó, thường là gánh nước, hoặc ôm củi, để đánh dấu việc bắt đầu công việc của nhà chồng.
    - Sau đó quay trở về nhà mẹ đẻ, cách ba hôm có người đi gọi về nhà chồng làm một số công việc trong nhà và chính thức trở thành vợ chồng.
    1.3.3. Liên hoan
    - Trong lễ kết hôn, hai bên nhà trai, nhà gái mời họ hàng, người quen, bạn bè, đến dự lễ cưới và chứng kiến cho đôi trai gái thành vợ thành chồng.
    - Những người đến tham dự lễ cưới ấy có quà mừng hạnh phúc cô dâu chú rể, chủ yếu là tiền, gánh gạo, gánh ngô, gánh sắn
    1.3.4. Trang phục lễ cưới
    Cô dâu mặc trang phục truyền thống của người Nùng, chú rể mặc quần áo bình thường.
    1.3.5. Ăn uống
    Bên cạnh những món ăn trong buổi liên hoan thông thường còn cần phải có món ăn truyền thống trong lễ kết hôn. Thường là lợn quay.
    1.4. Khi tái hôn
    Khi người vợ hay người chồng mất, người còn lại muốn tái hôn phải có sự đồng ý của gia đình bên nhà chồng, họ hàng.
    Nhận xét:
    Hỉ sự Người Nùng An có rất nhiều nét độc đáo và truyền thống. Những nét truyền thống đặc sắc đó của những dân tộc thiểu số khác nhau làm nên bức tranh văn hóa đa dạng, phong phú của Việt Nam. Trong những năm gần đây do kinh tế phát triển, giao thông thuận tiện cũng như nhiều chính sách quan tam ưu đãi với dân tộc thiểu số nên về văn hóa phong tục giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc kinh đang dần hòa nhập vào nhau đấy là điều đáng mừng nhưng cũng cần có những phương pháp hợp lý để bảo tồn và phát huy những nét đặc sắc truyền thống đó.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...