Luận Văn Tạo việc làm và ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TẠO VIỆC LÀM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẠO VIỆC LÀM ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC

    TẠO VIỆC LÀM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẠO VIỆC LÀM ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC
    I- CÁC KHÁI NIỆM CHUNG.
    1.1- Khái niệm về việc làm.
    Con người là động lực, động cơ, trung tâm của sự phát triển xã hội, với nguồn lực của mình là chí lực và sức lực ,con người chỉ có thể tham gia đóng góp cho sự phát triển xã hội thông qua quá trình làm việc của mình , quá trình làm việc này được thể hiện qua hai yếu tố chủ quan và khách quan đó là sức lao động của người lao động và tất cả các điều kiện tối thiểu cần thiết để người lao động sử dụng sức lao động của họ tác động lên tư liệu sản xuất và tạo ra sản phẩm xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và các điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động là quá trình người lao động làm việc. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động trong công việc( Hay là việc làm ,chỗ làm việc).
    Theo bộ luật lao động thì : "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập , không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ."
    Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điêù kiện hiện có của nền sản xuất. Một người lao động có việc làm khi người ấy chiếm được một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Thông qua việc làm để người ấy thực hiện quá trình lao động tạo ra sản phẩm và thu nhập của người ấy.
    Mỗi một hình thái xã hội, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội thì khái việc làm được hiểu theo những khía cạnh khác nhau . Trước đây người ta cho rằng chỉ có việc làm trong các xí nghiệp quốc doanh và trong biên chế nhà nước thì mới có việc làm ổn định, còn việc làm trong các thành phần kinh tế khác thì bị coi là không có việc làm ổn định . Với nhưỡng quan điệm đó nên họ cố gắng xin vào làm việc trong các cơ quan , xí nghiệp này. Nhưng hiện nay quan điểm ấy không tồn tại nhiều trong số những người đi tìm việc làm. Những người này sẵn sàng tìm bất cứ công việc gì , ở đâu , thuộc thành phần kinh tế nào cũng được miễn là hành động lao động của họ được nhà nước khuyến khích khoong ngăn cấm và đem lại thu nhập cao cho họ là được .
    Như chúng ta đã biết hai phạm chù việc làm và lao động có liên quan với nhau và cùng phản ánh một loaị lao động có ích của một người , nhưng hai phạm trù đó hoàn toàn không giống nhau vì : Có việc làm thì chắc chắn có lao động nhưng ngược lại có lao động thì chưa chắc đã có việc làm vì nó phụ thuộc vào mức độ ổn định của công việc mà người lao động đang làm .
    Phânloại việc làm .
    Có nhiều cách phân loại việc làm theo các chỉ tiêu khác nhau .
    * Phân loại việc làm theo mức độ sử dụng thời gian lao động :
    Việc làm đầy đủ: Với cách hiểu chung nhất là người có việc làm là người đang có hoạt động nghề nghiệp , có thu nhập từ hoạt động đó để nuôi sống bản thân và gia điình mà không bị pháp luật ngăn cấm . Tuy nhiên việc xác định số người có việc làm theo khái niệm trên chưa phản ánh trung thực trình độ sử dụng lao động xã hội vì không đề cập đến chất lượng của công việc làm . Trên thực tế nhiều người lao động đang có việc làm nhưng làm việc nửa ngày , việc làm có năng suất thấp thu nhập cũng thấp . Đây chính là sự khoong hợp lý trong khái niệm người có việc làm và cần được bổ xung với ý nghĩa đầy đủ của nó đó là việc làm đầy đủ .
    Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu đó là : Mức độ sử dụng thời gian lao động , năng suất lao động và thu nhập . Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động phải sử dụng đầy đủ thời gian lao động theo luật định ( Việt nam hiện nay qui định 8 giờ một ngày .) mặt khác việc làm đó phải mang lại thu nhập không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu cho người lao động (Nước ta hiện nay qui định mức lương tối thiểu cho một người lao động trong một tháng là :210.000 đ).
    Vậy với những người làm việc đủ thời gian qui định và có thu nhập lớn hơn tiền lương tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đày đủ.
    Thiếu việc làm : Với khái niệm việc làm đầy đủ như trên thì thiếu việc làm là những việc làm không tạo điều kiện cho người lao động tiến hành nó sử dụng hết quĩ thời gian lao động , mang lại thu nhập cho họ thấp dưới mức lương tối thiểu và người tiến hành việc làm không đầy đủ là người thiếu việc làm .
    Theo tổ chức lao động thế giới ( Viết tắt là ILO ) thì khái niệm thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng sau .
    -Thiếu việc làm vô hình : Là những người có đủ việc làm làm đủ thời gian , thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng thu nhập thấp do tay nghề , kỹ năng lao động thấp , điều kiện lao động xấu , tổ chức lao động kém , cho năng suất lao động thấp thường có mong muốn tìm công việc khác có mức thu nhập cao hơn .
    Thước đo của thiếu việc làm vô hình là :
    Thu nhập thực tế
    K= x 100 %
    Mức lương tối thiểu hiện hành
    -Thiếu việc làm hữu hình : Là hiện tượng người lao động làm việc với thời gian ít hơn quỹ thời gian qui định , không đủ việc làm và đang có mong muốn kiếm thêm việc làm và luôn sẵn sàng để làm việc .
    Thược đo của thiếu việc làm hữu hình là :
    Số giờ làm việc thực tế
    K= x100%
    Số giờ làm việc theo quy định
    Thất nghiệp : Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm , có khả năng lao động , hay nói cách khác là sẵn sàng làm việc và đang đi tìm việc làm .

     
Đang tải...