Tiểu Luận Tạm giữ trong tố tụng hình sự

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    A. LỜI MỞ ĐẦU 2
    B. NỘI DUNG
    I. TẠM GIỮ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
    1. Khái niệm 2
    2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giữ 3
    3. Đối tượng và căn cứ áp dụng 3
    4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ 5
    5. Thủ tục tạm giữ 6
    6. Thời hạn tạm giữ 7
    7. Một số vấn đề khác liên quan đến tạm giữ 9
    II. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU
    QUẢ ÁP DỤNG CỦA BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
    1. Những vấn đề còn vướng mắc trong pháp luật về tạm giữ 10
    2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tạm giữ 14
    C. LỜI KẾT 16
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17






    A. LỜI MỞ ĐẦU
    Tạm giữ là những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do cơ quan có thẩm quyền áp dụng nhằm buộc những người bị tạm giữ cách li khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì vậy, tạm giữ là những biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, ngăn chặn hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định hành vi, tính chất của hành vi phạm tội. Biện pháp tạm giữ được quy định tại các Điều 86, Điều 87, Điều 48, Điều 303, Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và một số luật liên quan như: Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 .
    B. NỘI DUNG
    I. TẠM GIỮ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
    1. Khái niệm
    Điều 79 BLTTHS 2003 các biện pháp ngăn chặn bao gồm các biện pháp sau: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, theo đó tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS hiện hành. Khoản 1 Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”.
    Như vậy, Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.

    2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giữ
    Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam do vậy tạm giữ cũng có ý nghĩa như các biện pháp ngăn chặn khác khi áp dụng. Biện pháp ngăn chặn không phải là một dạng trách nhiệm pháp lý được áp dụng với ý nghĩa phòng ngừa tội phạm. Tạm giữ không phải được áp dụng với ý nghĩa trừng trị với đối tượng bị áp dụng mà chỉ là sự phòng ngừa của toàn xã hội đối với đối tượng đó.
    Tạm giữ có ý ngĩa trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng biện pháp này đảm bảo cho việc hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi. Đối tượng bị tạm giữ bị cách li khỏi xã hội và không có khả năng thực hiện hành vi phạm tội cũng như cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc bỏ trốn. Việc áp dụng biện pháp tạm giữ thể hiện sự chuyên chính của nhà nước đối với hành vi phạm tội, xâm phạm lợi ích chung của toàn xã hội. Ngoài ra việc áp dụng biện pháp tạm giữ còn có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Việc pháp luật quy định một cách đầy đủ và chặt chẽ về tạm giữ là cơ sở pháp lí để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó các quy định trên cũng giúp công dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
    3. Đối tượng và căn cứ áp dụng
    Tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối vơi họ đã có quyết định tạm giữ”. Khoản 1 Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”.Như vậy, đối tượng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ là:
    - Tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biết nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ, vì hầu hết trong các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó bỏ trốn hoặc cản trở điều tra.
    - Tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang: Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ.
    - Tạm giữ với người bị bắt khi đang truy nã: Người đang bị truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì bỏ trốn. Trong thực tế người đang bị truy nã có thể đã bị khởi tố về hình sự, đã có tư cách tố tụng là bị can, bị cáo hoặc mới là người bị bắt đang trong quá trình xác minh lý do bắt. Hoặc người bị kết án về hình sự chưa thi hành án hoặc đang thì hành án thì bỏ trốn. Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
    - Tạm giữ đối với người phạm tội tự thú, đầu thú: Người tự thú, đầu thú mà tội phạm họ thực hiện rất nghiêm trọng, đặc biết nghiêm trọng, tính chất phức tạp, lên quan đến nhiều người, nhiều địa phường thì phải áp dụng biện pháp tạm giữ; trường hợp họ thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng sự việc phạm tội đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, người phạm tội có lí lịch, căn cước rõ ràng thì không nhất thiết phải áp dụng biện pháp tạm giữ.
    Như vậy, có thể thấy rằng: Điều 86 BLTTHS 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ.
    Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ như sau:
    “2. Người bị tạm giữ có quyền:
    a) Được biết lý do mình bị tạm giữ;
    b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
    c) Trình bày lời khai;
    d) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
    đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
    e) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
    3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.”
    Người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ tại khoản 2, khoản 3 Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự.
    4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
    Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây:
    - Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao )
    - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
    - Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
    - Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
    Theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền.
    Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
    5. Thủ tục tạm giữ
    Được quy định tại khoản 3 Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lí do tạm giữ, thời hạn tạm giữ ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
    Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết phải tạm giữ thì Viện kiểm sát ra lệnh hủy bỏ lệnh tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
    Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
    - Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
    - Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không có gì đáng kể, chưa đến mức pohair truy cứu trách nhiệm hình sự;
    - Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất it nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra.
    6. Thời hạn tạm giữ
    Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
    - Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
    Để đạt được mục đích của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp tính từ khi người bị bắt được giải tới trụ sở Cơ quan điều tra. Trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc người bị truy nã thời điểm tính từ khi công dân hoặc tổ chức giao người bị bắt cho Cơ quan điều tra.
    - Trong trường hợp cần thiết người đã ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. Những trường hợp cần thiết là những trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần phải có thêm thời gian để làm rõ về hành vi, làm rõ căn cước, lý lịch của người bị tạm giữ.
    - Trong trường hợp đặc biệt, người đã ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày.
    Đây thông thường là trường hợp đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc cần phát minh rất phức tạp mặc dù đã ra hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng vẫn chưa làm rõ sự việc.
    - Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn.
    Việc gia hạn tạm giữ chỉ có giá trị khi được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Nếu viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ sau khi hết hạn tạm giữ trước đó. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
    - Khi hết hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
    Đây là trường hợp không cần gia hạn tạm giữ hoặc đã ra hạn tạm giữ lần thứ nhất hoặc lần thứ hai nhưng vẫn không đủ căn cứ để xác định người bị tạm giữ đã thực hiện tội phạm thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
    - Thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam.
    Thời hạn tạm giữ dù ngắn nhưng lại hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của công dân nên thời hạn tạm giữ được tính trừ vào thời hạn tạm giam theo nguyên tắc một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam. Trường hợp người bị tạm giữ sau đó không bị tạm giam thì Tòa án quyết định hình phạt tù đối với bị cáo, thời hạn đã tạm giữ được trừ vào thời hạn phải chấp hành hình phạt tù theo nguyên tắc một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.
    7. Một số vấn đề khác liên quan đến tạm giữ
    a. Tạm giữ với một số đối tượng đặc biệt
    - Với đại biểu quốc hội: “Nếu phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ xét và quyết định”(Điều 58 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001).
    - Với đại biểu Hội đồng nhân dân: “Trong thời gian họp hội đồng nhân dân( .)Nếu vi phạm tội quả tang hoặc trường hợp khẩn cấp mà đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải báo cáo ngay với Chủ tọa kì họp. Giữa hai kỳ họp hội đồng nhân dân, nếu cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho đại biểu hội đồng nhân dân cùng cấp.” (Điều 44 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003).
    - Đối với người chưa thành niên: Theo quy định tại Điều 303 Bộ luật tố tụng hình sự thì: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ theo trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Cơ quan ra lệnh tạm giữ người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi tạm giữ.
    b. Chế độ tạm giữ
    Chế độ tạm giữ được quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự. Tạm giữ không phải là một hình phạt mà là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Vì vậy, chế độ tạm giữ cũng khác với chế độ đối với người chấp hành hình phạt tù.
    Nơi tạm giữ, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Nghị định số 89/CP ban hành ngày 7/11/1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam và Nghị định 98/2002/NĐ-CP sửa dổi, bổ sung một số điều của quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định 89 đã góp phần đảm bảo quyền lợi của người bị tạm giữ.
    c. Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với nhân thân và tài sản của người bị tạm giữ
    Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định khi áp dụng biện pháp tạm giữ nếu người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những người đó cho người thân thích khác chăm sóc, trong trường hợp không có người thân thích khác thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Đối với tài sản của người bị tạm giữ không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ phải áp dụng những biện pháp trông nom,bảo quản thích đáng. Sau khi áp dụng các biện bảo hộ đối với nhân thân và tài sản của người bị tạm giữ, cơ quan ra quyết định tạm giữ phải thông báo ngay cho người bị tạm giữ biết những biện pháp đã được áp dụng. Quy định này thể hiện tính chất nhân đạo của nhà nước ta, bảo đảm những quyền lợi chính đáng của người bị tạm giữ.
    d. Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị tạm giữ oan sai.
    Việc tạm giữ người không đúng theo quy định của pháp luật vẫn đã còn xảy ra ở nhiều nơi. Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị tạm giữ oan sai được quy định cụ thể tại Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009 không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân mà còn hạn chế những hành vi vi phạm trong khi thi hành nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng.




    II. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CỦA BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
    Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong luật tố tụng hình sự để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết. Mặc dù chế định này đã được quy định và sửa đổi nhìều lần song vẫn còn một số điều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay.
    1. Những vấn đề còn vướng mắc trong pháp luật về tạm giữ
    a. Về đối tượng tạm giữ
    - Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Chính vì vậy, việc khoản 1 Điều 86 quy định “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý.
    - Theo quy định tại Điều 303 với đối tượng là người chưa thành niên phạm tội nhưng nếu đối tượng này bị bắt theo quyết định truy nã có thể là người trước đây đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thậm chí đang thi hành án phạt tù thì bỏ trốn. Họ có thể là bị can, bị cáo tại ngoại nhưng trốn tránh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của viện kiểm sát, toà án. Đối với họ, cơ quan điều tra đã tự mình hoặc theo yêu cầu của viện kiểm sát ra quyết định truy nã. Như vậy vấn đề này còn chưa sáng tỏ.
    - Theo quy định tại Điều 48 BLTTHS thì người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình nhưng BLTTHS hiện hành lại chưa quy định việc cơ quan ra quyết định tạm giữ thông báo việc tạm giữ.
    b. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
    Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không quy định cho chỉ huy trưởng cảnh sát biển mà trong thẩm quyền ra quyết định tạm giữ lại quy định chỉ huy trưởng cảnh sát biển có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. Vậy, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng.
    c. Về thời hạn tạm giữ
    Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là : thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định.
    Thứ hai: Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ , cần có sự quy định rõ ràng hơn. Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc
    Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm c, Điều 81 BLTTHS thì; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là : Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định.
    Thứ tư: Về việc gia hạn tạm giữ: Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS quy định: “ trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lấn nhưng không được quá 3 ngày ”
    Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy đinh này trong việc gia hạn tạm giữ. Mặt khác cần quy định rõ hơn “ trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhưng không được quá ba ngày” . Nếu quy định như trên thì nên hiểu “ hai lần” mỗi lần không được quá ba ngày hay nên hiều “ hai lần” nhưng tổng thời gian hai lần đó là không quá ba ngày? Vậy nên hiểu như thế nào?
    Thứ năm: Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “ trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.”
    Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ?
    2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tạm giữ
    a. Về đối tượng tạm giữ
    - Tại khoản 1 Điều 86 nên quy định riêng rẽ hai đối tượng tạm giữ tự thú và đầu thú. Tránh đánh đồng hai đối tượng này vì tính chất của hai nhóm đối tượng này là khác nhau.
    - Đối quy định tại Điều 303 với đối tượng là người chưa thành niên phạm tội việc tạm giữ họ không nên phụ thuộc vào loại tội mà họ thực hiện, nghĩa là nếu họ thực hiện tội ít nghiêm trọng nhưng ra tự thú, đầu thú hoặc bị bắt theo quyết định truy nã thì vẫn có thể bị tạm giữ.
    - Điều 48 nên bổ sung thêm quy định: Trong hạn 12 giờ kể từ khi bị tạm giữ cơ quan ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho gia đình người bị tạm giữ, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giữ cư trú hoặc làm việc. Trường hợp người bị tạm giữ yêu cầu mời người bào chữa thì cơ quan ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho người bào chữa (nếu họ mời đích danh) hoặc đoàn luật sư để giúp người bị tạm giữ mời người bào chữa.
    b. Về thẩm quyền tạm giữ
    Quy định bổ sung thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp là chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Theo quy định của Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam thì nhiệm vụ của cảnh sát biển là tuần tra, kiểm soát để giữ gìn an ninh, trật tự trên biển; trong trường hợp phát hiện có hành vi phạm tội quả tang thì có quyền bắt giữ người và phương tiện phạm pháp quả tang, lập biên bản và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền. Thực tế thực hiện pháp lệnh này cho thấy, quy định này là cần thiết, hợp lí, đáp ứng nhu cầu thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm. Do vậy, khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 đã bổ sung quy định chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ. Cần bổ sung thẩm quyền quyết định bắt người trong trường hợp khẩn cấp cho chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
    c. Vể thời hạn tạm giữ
    Thứ nhất: Quy định cụ thể về thời hạn tạm giữ đối với người tự thú, đầu thú. Vì người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội bị bắt mà họ tự nguyện ra trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt.
    Thứ hai: Tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung, quy định một cách cụ thể và phù hợp hơn nữa các vấn đề như thời hạn tạm giữ, đối tượng áp dụng biện pháp này, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án hình sự. Nên sửa đổi cụm từ “3 ngày” trong khoản 1 Điều 87 BLTTHS thành “72 giờ” để hợp lí hơn hoặc cần giải thích rõ ràng khái niệm “ngày” để có sự áp dụng thống nhất.
    Thứ ba: cần quy định cụ thể hướng giải quyết cụ thể hoặc bổ sung thêm quy định về cách tính thời hạn tạm giữ đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ là: Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mà khi tàu bay, tàu biển không thể về giao nộp người bị bắt cho cơ quan điều tra đúng thời hạn như pháp luật đã quy định.
    Thứ tư: Về việc gia hạn tạm giữ cần quy định cụ thể những trường hợp cần thiết ra quyết định tạm giữ, thời gian cụ thể trong hai lần tạm giữ nhằm tránh hiểu sai lệch quy định của luật.
    Thứ năm: Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người tạm giữ hay là một chủ thể khác. Vì vậy, thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ.
    C. LỜI KẾT
    Luật tố tụng hình sự Việt Nam đã quy định những biện pháp ngăn chặn để phục vụ cho việc điều tra truy tố, xét xử bảo đảm tính trung thực công minh đúng người, đúng tội, không gây oan ức cho người vô tội và không bỏ xót kẻ phạm tội. Việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình tố tụng hình sự là điều cần thiết, trong những biện pháp ngăn chặn đó, tạm giữ là một trong những biện pháp quan trọng và hữu hiệu. Các quy định của pháp luật về đối tượng, căn cứ, điều kiện áp dụng, trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền ra lệnh cũng như chế độ đối với tạm giữ được pháp luật tố tụng hình sự quy định khá chặt chẽ song vẫn còn những hạn chế nhất định và có những quy định không phù hợp thực tế. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật tạm giữ là hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này.


















    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2006
    2. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
    3. Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – thực trạng, nguyên nhân và giải pháp : Luận án tiến sĩ luật học/ Nguyễn Văn Điệp, Hà Nội, 2005
    4. Một số vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam/ Phạm Thanh Bình, Nxb.Đồng Nai, Đồng Nai, 1997.
    5. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Bộ tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
    6. http://tholaw.wordpress.com/2009/08/19/bien-phap-ngan-chan-tam-giu-trong-luat-tths-viet-nam/
    7. http://tapchikiemsat.org.vn/viewtopic/phap-luat-58/Phan-biet-tam-giu-nguoi-560.html
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...