Tiểu Luận Tài nguyên nước

Thảo luận trong 'Môi Trường' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I ĐẶT VẤN ĐỀ
    Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng và là thành phần thiết yếu của sự sống. Nước quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của mọi quốc gia, mặt khác nước cũng có thể gây ra tai hoạ cho con người và môi trường. Tài nguyên nước bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển.
    Trong tự nhiên, nước luôn chuyển động không ngừng theo một chu trình tuần hoàn, liên tục, vĩnh viễn, bất di bất dịch gọi là “Chu trình thuỷ văn”.


    Chu trình thuỷ văn bao gồm 5 quá trình chính: bốc thoát hơi, ngưng tụ, giáng thuỷ (mưa, tuyết), trữ (trữ trên mặt và trữ ngầm qua thấm mặt và thấm lọc) và chảy trên bề mặt trái đất (trong các hệ thống kênh rạch, sông suối, qua một thời gian nào đó sẽ chảy ra biển). Trong mỗi chu trình, tuỳ theo những điều kiện cụ thể lại có nhiều các chu trình nhỏ khác nhau.


    Theo kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học thì lượng nước tham gia vào chu trình tuần hoàn mỗi năm chỉ chiếm khoảng 0,04% tổng lượng nước trên địa cầu. Tổng lượng nước trong thuỷ quyển khoảng 1.386x106 km3, trong đó có khoảng 2,5% là nước ngọt. Trong tổng số nước ngọt có khoảng 68,7% tồn tại dưới dạng băng tuyết, 29,9% là nước dưới đất và chỉ có khoảng 0,26% ở trong hệ thống sông, suối, ao, hồ . Việt Nam chúng ta có tài nguyên nước mưa, tài nguyên nước mặt, tài nguyên nước ngầm và tài nguyên nước biển.


    Tài nguyên nước mưa: Với lượng mưa tương đối phong phú, lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.960 mm đã cung cấp xấp xỉ 650 km3 nước trong năm. Tuy nhiên, mưa ở nước ta phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian. Miền núi mưa nhiều hơn vùng đồng bằng và các vùng trũng khuất gió; chênh lệch giữa vùng có lượng mưa lớn và vùng có lượng mưa nhỏ vào khoảng 5-6 lần (ở những vùng cá biệt chênh lệch này có thể lên tới xấp xỉ 10 lần). Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm; lượng mưa trong mùa chiếm từ 70-90% tổng lượng mưa/năm. Mùa khô kéo dài 5-6 tháng, có khi tới 7-8 tháng, có nơi 2-3 tháng không có mưa, là nguyên nhân chính gây thiếu nước, hạn hán nghiêm trọng.


    Tài nguyên nước mặt: Sự phân bố nước mặt không đồng đều theo lãnh thổ và biến đổi theo tháng, theo mùa trong năm và từ năm này qua năm khác vì nước mặt phụ thuộc chặt chẽ vào sự phân bố của mưa. Vùng có lượng mưa lớn thì có dòng chảy lớn và ngược lại. Nếu tính cả lượng nước từ ngoài lãnh thổ chảy vào Việt Nam theo hệ thống sông Mê Kông, sông Hồng và một số sông khác thì tài nguyên nước mặt tự nhiên trong các hệ thống sông đạt xấp xỉ 850 km3/năm.


    Tài nguyên nước dưới đất: Trữ lượng nước dưới đất được đánh giá theo hai loại: trữ lượng động tự nhiên và trữ lượng khai thác. Trữ lượng động tự nhiên của nước dưới đất là lưu lượng dòng chảy ngầm ở một mặt cắt nào đó của tầng chứa nước. Tiềm năng nước dưới đất có khả năng khai thác của nước ta là rất lớn, khoảng 60 tỷ m3/năm. Tổng trữ lượng động tự nhiên trên toàn lãnh thổ (chưa kể phần hải đảo) được đánh giá vào khoảng 1.828 m3/s. Còn trữ lượng khai thác của nước dưới đất là lượng nước tính bằng mét khối trong một ngày đêm có thể thu được bằng các công trình lấy nước một cách hợp lý về mặt kinh tế - kỹ thuật, với chế độ khai thác nhất định và chất lượng đáp ứng yêu cầu sử dụng trong suốt thời gian dự kiến sẽ sử dụng nước. Theo kết quả nghiên cứu đánh giá được tiến hành ở 144 vùng với tổng diện tích 35.000 km2, thì hiện nay mới xác định được trữ lượng khai thác cấp A là 580.000 m3/ngày đêm; cấp B là 1.300.000 m3/ngày đêm; cấp C là 8.620.000 m3/ngày đêm.


    Ngoài các nguồn tài nguyên nước mưa, nước mặt, nước ngầm chúng ta còn nguồn tài nguyên nước biển rất phong phú và đa dạng. Nước biển là điều kiện để bảo tồn và duy trì, phát triển các hệ sinh thái nước liên quan, trong đó có các nguồn lợi thuỷ - hải sản; là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế như nuôi trồng thuỷ - hải sản, giao thông vận tải thuỷ, du lịch giải trí, làm muối, năng lượng . Đồng thời, tài nguyên nước biển còn tạo môi trường đặc biệt quan trọng để duy trì các quá trình tuần hoàn của nước trong tự nhiên. Khối lượng nước khổng lồ trên biển cùng các hệ sinh thái nước biển có vai trò quan trọng trong duy trì quá trình làm sạch tự nhiên các chất thải ô nhiễm trên biển cũng như có nguồn gốc từ đất liền.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...