Chuyên Đề Tài liệu ôn thi môn tâm lý học (60 trang)

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ

    I. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học quản lý
    1. Khái niệm
    * Tâm lý:
    Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tâm lý là ý nghĩ, tình cảm, làm thành làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người”
    Tâm lí bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người.
    * Tâm lý học:
    Tâm lý học là môn khoa học nghiên cứu về tâm lý con người. Nó nghiên cứu các sự kiện của đời sống tâm lý, các quy luật nảy sinh, diễn biến và phát triển của các hiện tượng tâm lý, cũng như cơ chế hình thành của những hiện tượng tâm lý.
    Ngày nay tâm lý được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như:
    + Tâm lý học lao động
    + Tâm lý học sư phạm
    + Tâm lý học sáng tạo
    + Tâm lý học quản lý, v.v.
    * Tâm lý học quản lý:
    Tâm lý học quản lý là một chuyên ngành của tâm lý học, chuyên nghiên cứu những vấn đề trong hoạt động quản lý nhằm làm cho hoạt động quản lý đạt được hiệu quả tối ưu.
    Trong các quá trình quản lý sẽ biểu hiện ra các mối quan hệ cơ bản như sau:
    + Quan hệ giữa người lãnh đạo với những người dưới quyền mình.
    + Quan hệ giữa những người lãnh đạo với những người lãnh đạo khác.
    + Quan hệ giữa những người dưới quyền với nhau trong một hệ quản lý.
    Tâm lý học quản lý được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như:
    + Tâm lý học quản lý kinh doanh,
    + Tâm lý học quản lý quân sự
    + Tâm lý học quản lý y tế
    + Tâm lý học quản lý giáo dục
    + Tâm lý học quản lý hành chính, v.v.
    2. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học quản lý
    Đối tượng nghiên cứu là tâm lý của con người trong hoạt động quản lý. Tâm lý học quản lý nghiên cứu các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong hoạt động quản lý, các quy luật hình thành và ảnh hưởng của những hiện tượng này trong hoạt động quản lý con người.
    3. Nhiệm vụ của tâm lý học quản lý
    - Nghiên cứu những đặc điểm tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội của tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động quản lý.
    Ví dụ: bầu không khí tâm lý tập thể, truyền thống tập thể, dư luận, tâm trạng tập thể, xung đột tâm lý trong tập thể, uy tín người lãnh đạo vv.
    - Nghiên cứu cơ sở tâm lý học trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý, lãnh đạo trong các lĩnh vực quản lý
    - Nghiên cứu những đặc trưng giao tiếp trong hoạt động quản lý.
    - Những vấn đề nhân cách của người quản lý, các phẩm chất tâm lý của người lãnh đạo, các phong cách lãnh đạo.
    - Những vấn đề tâm lý trong tập thể quản lý, ê kíp lãnh đạo, những con đường biện pháp, hình thành và phát triển nhân cách người lãnh đạo quản lý cũng như vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.
    - Nghiên cứu những vấn đề liên quan tới việc động viên, thúc đẩy hoạt động cá nhân và tập thể lao động
    Ví dụ như nhu cầu, động cơ làm việc, các định hướng giá trị xã hội, tâm thế các thành viên.
    - Nghiên cứu những vấn đề trong các tổ chức cán bộ, tuyển chọn đánh giá sắp xếp cán bộ, trong công tác tư tưởng và công tác kiểm tra.
    4. Ý nghĩa nghiên cứu tâm lý học quản lý
    * Về mặt lý luận:
    Tâm lý học quản lý giúp cho nhà quản lý một hệ thống lý luận, các quy luật chung nhất trong trong việc quản lý con người tránh được những sai lầm trong tuyển chọn cán bộ, trong giao tiếp trong hoạch định kế hoạch quản lý.
    * Về mặt thực tiễn
    - Giúp nhà quản lý hiểu được những người dưới quyền, giải thích được những hành vi của họ, dự đoán truớc họ hành động như thế nào trong tình huống sắp tới. Điều này rất cần thiết giúp cho việc tuyển chọn, sắp xếp sử dụng con người hợp lý.
    - Giúp cho nhà quản lý nắm được cách thức nhận xét đánh giá con người một cách đúng đắn, khách quan, giúp cho nhà lãnh đạo quản lý biết cách tác động mềm dẻo nhưng kiên quyết đến cấp dưới, đến từng cá nhân và tâp thể phát huy tốt đa tiềm năng của họ trong công việc thực hiện mục tiêu của tổ chức.
    - Đối với nhân viên, cấp dưới, tri thức tâm lý học quản lý giúp họ hiểu được tâm lý của đồng nghiệp, cấp trên và bản thân mình; biết cách ứng xử hợp lý, phát huy tối đa khả năng của mình trong tổ chức.

    II. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý học quản lý
    1. Thời kỳ cổ đại
    * Phương Đông:
    Những tư tưởng về quản lý với việc sử dụng những yếu tố tâm lý con người trong quản lý cũng xuất hiện sớm ở phương Đông:
    · Khổng Tử (551-479 TCN)
    Tư tưởng xuyên suốt trong học thuyết của Khổng tử là đức trị. Với mong muốn xây dựng một xã hội phong kíên có tôn tri trật tự từ trên xuống dưới, công bằng, nhân nghĩa và thịnh trị, con người sống trọng tình cảm, giữ lễ nghĩa, ông đã xây dựng học thuyết quản lý của mình nhằm phát huy những phẩm chất tốt đẹp của con người. Lãnh đạo - cai trị dân theo nguyên tắc đức trị của Khổng tử đòi hỏi: Người trên phải noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo, lấy phép nhân trị làm nền tảng cho học thuyết của mình.
    Khổng Tử rất quan tâm đến người quản lý. Ông khuyên những người cai trị phải tu thân để trở thành nhân, biết làm điều nhân, phát triển bằng nhân tâm. Ba phẩm chất họ phải đạt được đó là: Nhân, Trí, Dũng.
    Nhân là thương người, thương mình, lôi cuốn mọi người vào công việc.
    Trí là sáng suốt trong công việc, biết nghe phải trái, làm việc có kế họach, chỉ thị rõ ràng, dám chịu trách nhiệm.
    Dũng là ý chí, ý chí là gánh vác trách nhiệm trước cấp trên và nhân dân, không đổ lỗi cho người khác
    Ông cho rằng muốn thành công trong một lĩnh vực nào đấy, nhất là “tề gia, trị quốc” cần có chính danh.
    Con người sinh ra có hai lọai: là quân tử thì có nghĩa, còn tiểu nhân thì chăm lo tư lợi. Muốn quản lý xã hội thì người quản lý là người hiền - tài, phải thu được lòng người, phải đúng đạo và tiết kiệm.
    Thuyết chính danh của Khổng Tử là một học thuyết chính trị và quản lý được đúc kết thành khái niệm “tam cương” (quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng” để hướng tới một xã hội có trật tự theo ngôi thứ đã định sẵn. Chính danh trong quản lý là phải làm việc xứng đáng với danh hiệu, chức vụ mà người đó được giao. Muốn chính danh thì phải có nhân tâm, không xảo trá, lừa lọc, không lợi dụng chức quyền. Song làm quá trách nhiệm và danh vi thì coi như “việt vị”. Ông cho rằng mầm mống của loạn lạc, bất ổn quốc gia là các hành vi việt vị của các quan đại thần, các tầng lớp cai trị.
    Nội dung thuyết đức trị có hạn chế là vị thế và vai trò của pháp chế và lợi ích kinh tế đối với xã hội không được coi trọng song tư tưởng lớn của Khổng Tử là muốn xây dựng một xã hội lý tưởng có trật tự từ trên xuống dưới trong đó cần có sự gương mẫu của nhà quản lý.
    Học thuyết đức trị của Khổng Tử được coi là học thuyết tiêu biểu trong quản lý nhà nước ở phương Đông và cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức quản lý của nhiều nước Châu Á trong đó có Việt Nam.
    · Mạnh Tử (372- 289 TCN)
    Mạnh Tử với thuyết an dân. Ông là người kế tục học thuyết của Khổng Tử, chủ trương dùng đức trị để cai trị dân, mơ ước về một xã hội bình đẳng tốt đẹp, một chế độ quân chủ đứng đầu là nhà vua biết chăm lo cải thiện đời sống của dân. Ông cho rằng cai trị là một nghề khó khăn, phức tạp, trị nước là một nghề cao quý nên người cai trị phải được tuyển chọn và đào tạo cẩn thận.
    Ông nói: dân là đáng quí, sau đến xã tắc và cuối cùng mới là vua. Theo ông xã hội loạn lạc là do chính quyền tồi tệ chứ không phải do dân.
    · Hàn Phi Tử (380- 233 TCN)
    Hàn Phi Tử đứng trên quan điểm pháp trị. Theo ông chính sách đức trị là đẹp, ông lại coi nó là không thực tế quản lý đất nước mà phải dựa vào pháp luật. Bởi vì pháp luật là công cụ điều khiển xã hội. Pháp luật không phân biệt các tầng lớp khác nhau trong xã hội và hình phạt là phương thức tất yếu để ngăn ngừa những hành động có hại cho đất nước. Việc tuyển chọn người, dùng người cai trị người phải dựa vào pháp, tuy nhiên pháp luật cũng phải biến đổi cho phù hợp với thời thế. Ông đòi hỏi cao ở người cai trị dân, họ phải là người biết kết hợp hài hoà giữa Pháp - Thuật - Thế
    Về chữ Thuật, ông giải thích hai nghĩa: là kỹ thuật, cách thức tuyển dụng và kiểm tra năng lực của quan lại, tâm thuật là mưu mô để che mắt người khác, không cho họ biết tâm ý của mình. Như vậy mới trừ được gian, dùng được người.
    Giải thích chữ Thế: Hàn Phi Tử mở rộng quan điểm của mình về nhà nước, ông cho rằng lịch sử xã hội loài người luôn luôn biến đổi, không có chế độ xã hội nào là vĩnh viễn, kẻ cầm quyền phải căn cứ vào nhu cầu khách quan đương thời và xu thế của thời cuộc mà lập ra chế độ mới.
    Học thuyết pháp trị còn nêu lên nguồn gốc giàu nghèo trong xã hội là do bất bình đẳng sinh ra.
    * Phương Tây:
    Những tư tưởng về quản lý được tìm thấy trong các tác phẩm triết học cổ của Hy Lạp.
    · Xôcrát
    Xôcrát đã đưa ra quan niệm về tính toàn năng của quản lý. Nghĩa là để quản lý được người quản lý phải uyên thâm về nhiều phương diện, kể cả trực tiếp thực thi công việc.
    Ông đã đề cập đến vai trò của người đứng đầu trong việc điều khiển công việc của cá nhân và tập thể
    · Platôn (427-347 TCN)
    Platôn đã đưa ra những quan điểm quản lý con người nói chung và những yêu cầu đối với người đứng đầu - những người cai trị dân nói riêng. Ông là người đứng trên quan điểm đức trị trong quản lý. Ông đòi hỏi rất cao về phẩm chất đạo đức và năng lực của người đứng đầu, cần phải đào tạo họ một cách kỹ lưỡng để họ có năng lực chuyên môn và phẩm chất cần thiết.
    2. Giai đoạn từ thế kỷ XVIII
    Từ thế kỷ XVIII, ở phương Tây, toàn bộ đời sống xã hội đã thay đổi một cách căn bản do sự ra đời của nền văn minh công nghiệp, làm nảy sinh nhu cầu về một phương pháp quản lý có hệ thống.
    * Phrederic W. Taylor (1856 - 1915)
    Học thuyết quản lý theo khoa học gắn liền với tên tuổi của F. Taylor. Học thuyết này nhằm xác định một cách khoa học các phương pháp tốt nhất nhằm thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào trong quản lý và để lựa chọn, đào tạo, khuyến khích các nhân viên.
    Quan điểm học thuyết “sản xuất theo dây chuyền” là phải có sự chuyên môn hoá cao trong thao tác của người lao động. Mỗi người trong tổ chức dây chuyền lao động được quy định từng thao tác, từng chức năng chi tiết, chặt chẽ từng giờ, từng phút, không có thao tác thừa, không có sự trùng lặp, ai vào việc nấy nên rất tiết kiệm thời gian và sức lực
    Những vấn đề cơ bản trong quản lý của Taylor là:
    - Tiêu chuẩn hoá công việc
    - Chuyên môn hoá công việc
    - Quan niệm về con người kinh tế
    - Quan tâm cải tạo các quan hệ trong quản lý trong đó chủ trọng mối quan hệ giữa công nhân và máy móc, tính đến tính hợp lý của hành vi và những thao tác người lao động.
    Nhận xét: Cách quản lý này đã tận dụng tối đa sức lao động của con người. Con người làm việc vừa căng thẳng vừa vừa đơn điệu trong những thao tác lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác dễ sinh ra chán nản, mất đi hứng thú làm việc, xảy ra những trường hợp đập phá máy móc, v.v đã buộc các nhà khoa học phải suy nghĩ. Họ thấy thiếu sót chủ yếu của cách tổ chức này là chưa thấy vai trò ý thức con người trong hệ thống sản xuất và quản lý, chưa thấy được ảnh hưởng của môi trường xung quanh đến tâm lý con người.
    * H.Fayol (1841 – 1925)
    H.Fayol (nhà tâm lý học người Pháp) có phương pháp nghiên cứu tương tự như F.Taylo nhưng đề xướng những nguyên tắc lao động hợp lý, lao động có khen thưởng và trả lương lao động theo sản phẩm, tuyển chọn công nhân phù hợp với tính chất lao động.
    Hiệu quả nghiên cứu của công trình này.
    + Số lượng công nhân giảm từ 2-> 3 lần
    + Năng suất lao động tăng từ 100% -> 200%
    Học thuyết Taylor và Fayol có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn quản lý lúc bấy giờ, nó đã khuyến khích các nhà quản lý đi tìm cách thức tốt nhất để quản lý con người và đã góp phần thiết thực vào nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, do cùng xuất phát từ quan niệm triết học về con người kinh tế, từ quan niệm duy lý hay hợp lý trong hành vi của con người, họ đã nhìn nhận con người một cách đơn giản, máy móc phiến diện. Chính vì vậy họ không nhìn thấy khả năng sáng tạo của công nhân, coi thường mối quan hệ giữa công nhân và người quản lý. Việc chuyên môn hoá lao động bằng cách chia nhỏ quá trình sản xuất thành những công đoạn nhỏ, công nhân không được tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, không được luân chuyển công việc khiến họ trở nên mệt mỏi, căng thẳng, không có hứng thú làm việc. Mô hình quản lý theo khoa học của Taylor ngày càng trở nên bất cập
    Vào những năm 20 của thể kỳ XX nẩy sinh ra nhu cầu cấp bách về một cách tiếp cận mới trong quản lý, quan tâm hơn yếu tố tâm lý xã hội và văn hoá tới những quan hệ con người, mở đầu cho sự ra đời của tâm lý học quản lý.
    3. Sự ra đời của tâm lý học quản lý
    · Mary Paker Follet (1868- 1933)
    M. Follet rất quan tâm đến yếu tố tâm lý, xã hội của người lao động. Bà cho rằng trong quản lý cần phải quan tâm tới người lao động với toàn bộ đời sống của họ, không chỉ quan tâm đến lới ích kinh tế mà còn phải quan tâm đến cả đời sống tinh thần và tình cảm của họ. Bởi vì sự hoà hợp thống nhất giữa người quản lý và người lao động sẽ là nền tảng cũng chính là động lực cho sự phát triển của mọi tổ chức. Thực chất quản lý là tạo ra mối quan hệ tốt đẹp đó . M. Follet đề cao mối quan hệ con người, đề cao sự hợp tác, thống nhất giữa người lao động và người quản lý. Để xây dựng mối quan hệ như vậy, theo bà cần phải xóa bỏ một số quan điểm quản lý truyền thống mà một trong những số đó là là việc sử dụng quyền lực được xuất phát từ kiến thức rộng và chuyên môn giỏi hơn của nhà quản lý
    · Elton Mayo
    Xây dựng học thuyết quan hệ con người trên cơ sở thực nghiệm tại nhà máy điện lực Hawthorne ở miền tây nước Mỹ. Ông cùng cộng sự của mình tại trường đại học Harvard đã tiến hành nghiên cứu hành vi của con người trong tình huống công việc tại nhà máy này.
    Kết luận của E. Mayo được rút ra từ thực nghiệm nghiên cứu về nguyên nhân ảnh hương đến năng suất lao động của công nhân ở nhà máy Hawthorner:
    + Ánh sáng làm việc không gây ảnh hưởng đến năng suất lao động.
    + Các kích thích tiền lương, thưởng cũng không cải thiện năng suất lao động lâu dài.
    + Sự thay đổi cải tiến điều kiện điều kiện làm việc cũng không ảnh hưởng quyết định đến năng suất lao động.
    + Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động là phi vật chất như sự quan tâm đến lợi ích tâm lý công nhân để tạo ra bầu không khí lao động tập thể. Sự tác động lẫn nhau giữa những người lao động sẽ có giá trị nhiều hơn sự tác động của nhà quản lý.
    Mayo đã phát hiện rằng khuyến khích bằng tiền không phải lúc nào cũng nâng cao năng suất lao động. Có một điều gì đó quan trọng hơn nhiều so với tiền lương hoặc các điều kiện vật chất của công việc. Ông đã đi đến một cách tiếp cận mới trong trong nghiên cứu đánh giá hành vi của con người lao động: con người cần được xem xét trong toàn bộ hoàn cảnh xã hội của họ trong môi truờng mà họ sống và hoạt động.
    Chính cách tiếp cận này đã giúp ông rút ra những kết luận quan trọng là:
    - Vai trò quan trọng của yếu tố tình cảm, mối quan hệ xã hội tác động tới hành vi và năng suất lao động của công nhân. Ông cho rằng nếu quyền lực và sự giám sát chặt chẽ con người trong lao động quan trọng một thì khía cạnh tình cảm, sự hoà hợp tâm hồn trong quan hệ con người tăng gấp đôi.
    - Tầm quan trọng của nhóm đối với người lao động. Công nhân không phải là một cỗ máy sống, không phải là những bánh răng trong cỗ máy mà là những thành viên của một nhóm có sự gắn với lợi ích tập quán và hành vi.
    Hai đại biểu M.Follet và E.Mayo những người đã lập ra học thuyết quản lý cũng được coi là những người có công lớn cho sự ra đời của tâm lý học quản lý với tư cách là một chuyên ngành của tâm lý học ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX trên cơ sở trào lưu quản lý theo khoa học.
    · Mc Gregor (1906-1964)
    Nghiên cứu sâu hơn khía cạnh tâm lý học hành vi và đã đóng góp cho sự phát triển tâm lý học quản lý với thuyết X, Y và Z.
    Thuyết X: con người có bản chất tiêu cực:
    - Con người vốn lười không thích làm việc và tìm cách né tránh công việc.
    - Họ chỉ nhìn thấy tư lợi và thờ ơ lãnh đạm đối với mục tiêu của tổ chức.
    - Họ sợ bị lừa dối, bị lọt vào cạm bẫy của những kẻ mưu mô xảo quyệt.
    Thuyết Y: Thuyết này tiến bộ hơn, cho rằng phải chú trọng tối ưu ưu điểm của cá nhân, coi nhẹ những khuyết điểm của họ.
    - Cá nhân đóng vai trò tích cực hoạt động hơn là thụ động.
    - Cá nhân có tiềm năng để phát triển, khả năng để lãnh trách nhiệm, sẵn sàng hướng về mục tiêu của tổ chức.
    Thuyết Z
    - Thái độ, cử xử của cá nhân do ảnh hưởng của tương tác xã hội.
    - Đồng nhất quan điểm => thống nhất trong công việc.
    - Con người tìm kiếm các mối quan hệ xh có ý nghĩa trong công việc.
    - Sẵn sàng đáp trả sự mong chờ của người xung quanh hơn là những kích thích vật chất.
    Tổ chức phải chú trọng những ưu điểm trên và khuyến khích nhân viên luôn luôn cải thiện. Sự quản lý dựa vào mục tiêu thay cho sự kiểm soát, quản lý thông qua tự giác tự chủ.
    Tóm lại: các thuyết trên thì chúng ta thấy rằng sự quản lý không thể tách rời với yếu tố tâm lý. Các học thuyết quản lý sau này càng đi theo hướng vận dụng tâm lý vào trong công tác quản lý.
    · Chủ nghĩa Mác-Lênin
    Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một bước ngoặt to lớn trong lịch sử nhân loại, trên cơ sở nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, đã đưa ra những tư tưởng của mình về quản lý
    V.I Lênin đã sớm chỉ thị về việc cần thiết quan tâm vận dụng những tri thức tâm lý học vào trong lĩnh vực quản lý con người.
    Ngay từ những năm 60 thế kỷ XX ở các xí nghiệp, bên cạnh những chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế người ta đã yêu cầu phải xác định cả những chỉ tiêu xã hội và chỉ tiêu tâm lý trong kế hoạch hàng năm.
    III. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quản lý
    1. Phương pháp quan sát
    Nhà nghiên cứu trực tiếp đi thị sát quần chúng, dùng tai để nghe ý kiến của họ, dùng mắt để để nhìn mọi hiện tượng xã hội nhằm thu thập những lượng thông tin chính xác, sống động tránh tình trạng tam sao thất bản hoặc nghe những lời báo cáo sai sự thật.
    Ví dụ một số công ti xí nghiệp lớn các ông chủ còn thuê một số nhà chuyên môn tâm lý, xã hội học làm nhiệm vụ quan sát tại cổng nhà máy, tại nơi làm việc để phát hiên ra những xúc cảm từng người. Chính việc này đã làm giảm đi được tai nạn lao động trong nhà máy.
    2. Phương pháp nghiên cứu kết quả, sản phẩm hoạt động
    Đây là phương pháp nghiên cứu tâm lý gián tiếp thông qua sản phẩm mà đối tượng nghiên cứu đã làm ra. Trong hoạt động quản lý đó là: báo cáo, biên bản, kế hoạch, kết quả hoạt động có thể đánh giá các đặc điểm tâm lý như năng lực chuyên môn, động cơ, thái độ với công việc, ý chí, khả năng sáng tạo của đối tượng. Lưu ý, khi phân tích kết quả hoạt động của người lãnh đạo cần tránh lẫn lộn giữa kết quả của bản thân đó với kết quả của tâp thể
    3. Phương pháp trò chơi “sắm vai nhà quản lý”
    Phương pháp này được tiến hành thông qua việc xây dựng một tình huống quản lý đưa đối tượng nhập vai để giải quyết các tình huống đó.
    Ví dụ: + Cấp trên giao một việc hết sức phi lý, xem họ tỏ thái đố như thế nào(Kêu ca phàn nàn và từ chối, cãi cọ tranh luận, nhẹ nhàng vạch cái sai)
    + Cho cấp dưới hối lộ rất hợp lý cấp trên: Đến mừng đám cưới nhưng rất nhiều tiền Cậu chỉ bày vẽ rồi nhận, nạt nộ mắng mỏ vì hành vi xấu, cảm ơn và từ chối rồi nhận)
    + Giao quyền hành quản lý cho một người trể tuổi có tinh thần đổi mới để: xác định năng lực của thế hệ trẻ, mô hình quản lý mới
    4. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử hoạt động
    Đó là nghiên cứu thành công và thất bại trong hoạt động quản lý, lãnh đạo của những nhà lãnh đạo, quản lý nổi tiếng qua tiểu sử hoạt động của họ. Phương pháp này làm góp phần làm phong phú thêm những kinh nghiệm cho các nhà quản lý, lãnh đạo về cách thức giải quyết các tình huống phức tạp, đa dạng trong thực tiễn quản lý. Thêm vào đó nó giúp chúng ta trong việc xác định rõ những đặc tính
    Tâm lý học quản lý còn sử dụng nhiều phương khác như: Phương pháp điều tra, Phương pháp trắc nghiệm, Phương pháp thực nghiệm, v.v. trong việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong hoạt động quản lý, các quy luật hình thành và ảnh hưởng của những hiện tượng này trong hoạt động quản lý con người.














    Chương 2:
    HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ

    I. Tính chất cơ bản của hoạt động quản lý
    1. Hoạt động quản lý
    * Quản lý:
    C.Marx đã viết: “Một người chơi vĩ cầm thì tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”
    - Theo F.Taylor: “Quản lí là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”
    - Theo H. Fayol: “Quản lí nghĩa là dự kiến, tổ chức, lãnh đạo, phối hợp và kiểm tra”
    - Theo Từ điển Tiếng Việt, Quản lí có nghĩa là: Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.
    Tóm lại, quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên các khách thể nhằm đạt được mục tiêu định trước.
    * Hoạt động quản lý:
    Hoạt động quản lý là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa chủ thể và đối tượng quản lý qua con đường tổ chức, là sự tác động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng vào việc hoàn thành những mục tiêu nhất định cũa tập thể và xã hội.
    Đặc điểm hoạt động quản lý:
    + Chủ thể quản lý: có thể là cá nhân, tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các công công cụ, với những phương pháp qủan lý thích hợp.
    + Đối tượng quản lý: Tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy theo các từng lọai đối tượng khác nhau mà ta chia thành các dạng thức quản lý khác nhau.
    + Khách thể quản lý: Có thể là hành vi thực thể (cá nhân, tổ chức, sự vật hay môi trường ) nhưng cũng có thể là mối quan hệ giữa thực thể trong quá trình vận động của chúng.
    + Mục tiêu quản lý: đó là cái đích đạt được tại một thời điểm trong tương lai do chủ thể và khách thể thống nhất định trước.
    + Môi tường quản lý: Bao gồm cả môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội ảnh hưởng đến quá trình quản lý.
    2. Tính chất cơ bản của hoạt động quản lý
    1. Hoạt động quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thụật, là một nghề của xã hội
    * Hoạt động quản lý là một khoa học:
    - Hoạt động quản lý phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật, nắm vững đối tượng, có thông tin đầy đủ chính xác, có khả năng thực hiện (tính khả thi).
    - Phải tuân theo các quy luật khách quan, gạt bỏ những tình cảm và giá trị khác, phải dựa trên những phương pháp quản lý khoa học và trên những phương pháp quản lý cụ thể (diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, thống kê).
    * Hoạt động quản lý là nghệ thuật:
    - Trong hoạt động quản lý luôn xuất hiện những tình huống bất ngờ. Kinh nghiệm cho thấy không người lãnh đạo nào, quản lý nào có thể chuẩn bị sẵn tất cả tình huống.
    - Hoạt động của người lãnh đạo luôn luôn đòi hỏi sự nhanh nhạy, quyết đoán, khả năng tư duy sáng tạo, sự cảm hứng, tính linh hoạt cao trước vấn đề đặt ra. Hoạt động này:
    + Không mô thức hoá nghĩa là nghệ thuật lãnh đạo không có cách thức và quy định thống nhất.
    + Có tính tuỳ cơ và tính linh hoạt.
    + Có tính đặc thù và tính ngẫu nhiên.
    + Biết dùng người đúng vị trí, phù hợp với khả năng.
    Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý tỷ lệ thuận với hiệu quả lãnh đạo.
    * Hoạt động quản lý là một nghề trong xã hội:
    + Có quá trình đào tạo, có tích lũy kinh nghiệm.
    + Đòi hỏi có năng khiếu, say mê.
    + Nó có đối tượng cụ thể: đối tượng đó là con người và tổ chức.
    + Sản phẩm của hoạt động quản lý là các quyết định, nó có ảnh hưởng và tác động tới quá trình phát triển xã hội.
    2. Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động phức tạp và có tính chuyên biệt
    Tính phức tạp của hoạt động quản lý được quy định bởi đặc điểm của đối tượng quản lý, của các mối quan hệ xã hội mà nó đụng chạm tới. Đối tượng quản lý là con người và tổ chức với những đặc điểm và tâm lý phức tạp khác nhau.
    Tính chất chuyên biệt thể hiện trong yêu cầu về đào tạo người quản lý, lãnh đạo (phẩm chất, kiến thức, kỹ năng) với kiến thức sâu rộng và đặc biệt là quá trình tự đào tạo của nhà quản lý.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...