Tài liệu Tài liệu ôn thi kinh tế thời kỳ quá độ lên CNXH

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vấn đề 1 : Tính khách quan của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam Đề bài : Từ trình độ nền kinh tế còn thấp, Việt Nam cần và có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa được không ? Tại sao ?
    TRẢ LỜI
    Từ trình độ nền kinh tế còn thấp, Việt Nam có cần và có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa được không ? Để trả lời vấn đề này, trước hết ta nghiên cứu những quan điểm của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
    A. Quan điểm của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
    Theo Mác-Ănghen: cách mạng vô sản nhất định xảy ra vì đó là cách giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
    Xét về mặt kinh tế, qua quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa, Mác đã chỉ ra nguồn gốc của tư bản dù có xuất xứ như thế nào nhưng xét tới cùng cũng chính là do những giá trị thặng dư do giai cấp công nhân và người lao động đã tạo ra, nhưng với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chúng trở thành tư bản, trở thành điều kiện tồn tại phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ nhận thức tự phát tới nhận thức tự giác hơn, giai cấp công nhân, người lao động nói chung sẽ thông qua cuộc cách mạng vô sản để giành lại những gì mà trước kia trong lịch sử họ đã bị tước đoạt thông qua quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa. Khi đó các tư liệu sản xuất thực sự được giải phóng ra khỏi khuôn khổ của chế độ tư hữu, nó thuộc về cộng đồng xã hội. Một phương thức như vậy được gọi là cộng sản chủ nghĩa.
    Khác với cuộc cách mạng dân tộc, cách mạng vô sản mang tính chất quốc tế vì với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở thành những lực lượng mang tính quốc tế, do đó theo Mác-Ănghen cách mạng vô sản phải nổ ra một cách đồng thời trong phạm vi toàn thế giới.
    Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa theo Mác-Ănghen được phân thành hai giai đoạn phù hợp với 2 trình độ thấp và cao của phương thức sản xuất đó. Giai đoạn thấp được gọi là xã hội chủ nghĩa đó là giai đoạn phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa vừa mới ra đời, do đó trong hệ thống kinh tế –xã hội còn mang nhiều dấu ấn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế có thể coi đây là giai đoạn quá độ lâu dài cho sự ra đời của một phương thức sản xuất. Đây là giai đoạn tiếp tục và đi tới hoàn thành về cơ bản quá trình xã hội hóa mà trực tiếp là xã hội hóa những tư liệu sản xuất. Ở chủ nghĩa xã hội do còn nhiều hạn chế cả về sức sản xuất lẫn ý thức xã hội, do đó nguyên tắc phân phối phù hợp giai đoạn này là phân phối theo lao động. Ở giai đoạn cao là giai đoạn phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa thực sự ra đời. Về mặt cấu trúc nền kinh tế, tính ưu việt của chế độ công hữu tới đây mới được bột lộ một cách đầy đủ để khẳng định sự thắng lợi của phương thức sản xuất mới. Giai đoạn cao là giai đoạn mà các quy luật của kinh tế thị trường đã phát huy hết của mình để được thay thế dần bởi một hệ thống quy luật mang tính xã hội trực tiếp. Nguyên tắc phân phối phù hợp ở giai đoạn này là phân phối theo nhu cầu thay thế cho phân phối theo lao động.
    Cũng như Mác-Ănghen, Lênin coi cách mạng vô sản là tất yếu và mang tính quốc tế. Nhưng trong điều kiện phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa ông cho rằng cách mạng vô sản không nhất thiết phải nổ ra một cách đồng thời trên phạm vi toàn thế giới, mà có thể nổ ra và giành được chính quyền trước hết ở một hay một số dân tộc, thậm chí ở đó đang còn ở trình độ phát triển thấp, nhưng đó phải là nơi tập trung các mâu thuẫn của thời đại và là nơi có khâu yếu nhất trong toàn bộ hệ thống phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
    Quá độ lên CNXH : Giữa chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn thời kỳ đặc biệt là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nó tương ứng thời kỳ phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa đang thai nghén đang ra đời như tư tưởng của Mác-Ănghen.
    Lênin không chỉ đặt tên cho thời kỳ quá độ mà còn nêu đặc trưng thời kỳ này đó là một hệ thống kinh tế trong đó bao gồm cả hai đặc trưng, những đặc trưng của chủ nghĩa tư bản vẫn đang còn tồn tại nhưng đã trở nên lỗi thời không còn phù hợp với xu hướng tiến bộ và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội đã và đang ra đời đại diện cho xu hướng tiến bộ nhưng còn rất non yếu.
    Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới CNXH nó diễn ra từ giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công của xã hội cả về lực lượng sản xuất, QHSX, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được qui định bởi đặc điểm ra đời, phát triển của cách mạnh vô sản và những đặt trưng kinh tế, xã hội của chủ nghĩa xã hội
    Từ tư tưởng đó ta nhận xét giữa quá độ về chính trị và quá độ về kinh tế tuy đều diễn ra trong một quá trình, nhưng có sự khác nhau.
    - Khác nhau về thời gian, thời điểm. Nếu như quá độ chính trị gắn liền với cách mạng xã hội ở thời điểm bùng nổ vì thế nó được xác định một cách chính xác rõ ràng có diễn biến, còn quá độ về kinh tế là việc xuất hiện những đặc trưng mới trong lòng của chất cũ thường khó xác định hơn, mà chỉ biết đó là một thời kỳ trong lịch sử.
    - Khác nhau về nội dung chủ yếu: nếu như về mặt chính trị nội dung chủ yếu đó là việc giành chính quyền đập tan hệ thống chính trị cũ, thiết lập củng cố và hoàn thiện hệ thống chuyên chính vô sản. Thời kỳ quá độ về mặt kinh tế không phải là đập tan toàn bộ hệ thống kinh tế cũ mà là sử dụng một cách có hiệu quả hệ thống kinh tế đó cho mục đích mới.
    B. Về hình thức và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
    Theo lý thuyết, quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều hình thức và con đường khác nhau cho mỗi quốc gia và dân tộc. Điều đó là do ba yếu tố sau đây qui định: 1 là do mức độ chín muồi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; 2 là phụ thuộc với tương quan lực lượng giữa những đại diện cho hai mặt mâu thuẫn lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; 3 là tùy thuộc đặc điểm, truyền thống lịch sử và văn hóa của mỗi dân tộc.
    Theo lịch sử, có 2 con đường và 2 hình thức chủ yếu để bước vào quá độ của một phương thức sản xuất mới.
    - Một là con đường phát triển tuần tự đầy đủ các hình thức để phát triển từ thấp tới cao, từ chủ yếu tới thứ yếu, từ cục bộ tới toàn diện. Hình thức và con đường này chỉ sự phát triển chung của thời đại và với trường hợp này sự quá độ về mặt kinh tế thường xuất hiện sớm hơn để chuẩn bị các điều kiện vật chất cho quá độ chính trị.
    - Hai là sự phát triển rút ngắn khi có những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi có thể bỏ qua một hay vài nấc thang, hình thức để có thể đạt tới trình độ chung của thời đại. Trong lịch sử, con đường và hình thức này thường gắn liền với thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Việc giành được chính quyền của cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định cho việc thực hiện về sự quá độ về kinh tế. Vì thế, đây là xu hướng phát triển của một nền kinh tế hay một dân tộc cụ thể nào đó.
    C. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm:
    - Nếu như quá độ trước kia vẫn diễn ra trong khuôn khổ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chỉ có sự khác nhau về đối tượng sở hữu về tư liệu sản xuất và sự khác nhau hình thức sở hữu. Còn quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự chuyển biến từ những hình thức tư hữu cuối cùng trong lịch sử, hình thành hình thức công hữu đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
    - Xét về quan hệ giữa người với người thì các thời kỳ quá độ trước kia vẫn dựa trên quan hệ người bóc lột người, chỉ khác nhau về đối tượng và hình thức của các quan hệ đó. Còn quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự quá độ để đi tới sự xóa bỏ các nguyên nhân để hình thành quan hệ người bóc lột người.
    Nhận xét: quá độ lên chủ nghĩa xã hội nó mang tính cách mạng và triệt để hơn so với các thời kỳ quá độ trước kia xét theo phương diện xã hội hóa và giải phóng con người. Do đó thời kỳ quá độ này đòi hỏi không chỉ về mặt thời gian mà còn đòi hỏi về mặt ý thức, trình độ để có thể vượt qua những khó khăn chưa hề có trong lịch sử. Khó khăn đó không chỉ đối với giai cấp tư sản mà khó khăn lớn nhất cần phải vượt qua lại chính là đối với giai cấp công nhân và người lao động nói chung.
    E. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam : quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu lịch sử đối với nước ta vì:
    - Phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với qui luật khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế xã hội sau cao hơn hình thái KT-XH trước nó. Sự biến đổi các hình thái KT-XH nói trên đều tuân thủ theo qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Thực tiễn đã khẳng định cho dù ngày nay chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học công nghệ và thị trường, nhưng nó vẫn là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, những mâu thuẫn của chế độ này thì vẫn còn tồn tại và ngày càng sâu sắc hơn. Ở đầu thế kỷ 21, có học giả phương Tây đã phân tích CNTB là một “cỗ máy Sáng tạo /Huỷ hoại”; cỗ máy ấy sáng tạo càng nhiều thì hủy hoại càng lớn; nó tàn phá cả môi trường sinh thái, các cân bằng lâu dài của tự nhiên lẫn bản thân con người và các hình thái xã hội, nó đẻ ra tình trạng bất bình đẳng ngày càng lớn. Vì vậy, với những mâu thuẫn trên, CNTB sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay, với các cố gắng thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển của tự nhiên của lịch sử.
    - Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng VN: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng XHCN. Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do dân chủ . đồng thời nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta làm cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được đối lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho mọi người được ấm no, tự do, hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại đa làm cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
    Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ngay cả trong điều kiện không có Liên xô.
    Về khả năng khách quan, trước hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia, không những làm cho sự quá độ bỏ qua chế độ tư bản trở thành tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Các đặc trưng của thời đại này là:
    - Lực lượng sản xuất ngày nay đã đạt tới trình độ rất cao, để dẫn tới tính chất xã hội hóa rất rộng lớn. Điều đó được thể hiện bởi hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật được tạo ra ngày nay trên thế giới. Cơ sở vật chất đó đã và đang được xây dựng trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà nội dung cơ bản của nó đó là cuộc cách mạng về năng lượng, cuộc cách mạng về vật liệu, cuộc cách mạng về công nghệ sinh học, cuộc cách mạng tin học, cuộc cách mạng về điều khiển học và công nghệ vũ trụ.
    - Lực lượng sản xuất thay đổi dẫn đến quan hệ sản xuất thay đổi cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn là sở hữu đặc trưng nhất trong hệ thống sở hữu hiện nay, nhưng trong lòng hệ thống đó cũng đã xuất hiện những hình thức sở hữu có tính chất xã hội hơn như: sở hữu tập thể các nhà tư bản, sở hữu tập thể con người lao động, sở hữu cổ phần, sở hữu của Nhà nước Quản lý cơ chế vận động nền kinh tế cũng sẽ thay đổi theo. Phân phối bắt đầu đã có sự thay đổi: phân phối lợi nhuận của các công ty cổ phần, chế độ phúc lợi của Nhà nước.
    - Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản xấu hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “con đường phát triển rút ngắn”. Xu hướng nền kinh tế thế giới là quá trình toàn cầu hóa về kinh tế. Xu hướng liên kết ngang: hình thành các khu vực kinh tế EU, AFTA, NAFTA, APEC Với xu thế toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển nếu có đường lối chính sách đúng

    Về những tiền đề chủ quan, Việt Nam là nước có dân số tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền Nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng được những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã hội. So sánh với Liên Xô trước đây khi bắt đầu thời kỳ quá độ, ta tuy có mặt yếu, nhưng cũng có mặt thuận lợi hơn trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
    Quá độ lên CNXH không những phù hợp với qui luật phát triển lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân VN đã chiến đấu hy sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh. Những yêu cầu ấy, chỉ có CNXH mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công CNXH.
    Cách mạng Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo – một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo và trí tuệ khoa học, có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng –đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lịch sử Việt Nam đã chỉ ra mọi phong trào yêu nước của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản và các phong trào yêu nước khác đều lần lượt bị thất bại. Cuộc cách mạng đó chỉ với sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam mới đoàn kết được toàn thể nhân dân lao động và đã giành được thắng lợi cuối cùng. Vì thế sau ngày thắng lợi Việt Nam không thể xây dựng một Nhà nước quân chủ phong kiến, cũng không thể là một nền chuyên chính của giai cấp tư sản, mà phải là một Nhà nước dân chủ nhân dân để đi tới chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó ta còn có Nhà nước XHCN do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN XHCN
    F. Phát triển bỏ qua giai đoạn CNTB
    Đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ TBCN. Trước đây miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ với “đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển TBCN”, khi cả nước thống nhất cùng tiến lên CNXH, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước lên CNXH, Đảng cộng sản VN khẳng định: “Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TB, từ một XH vốn là thuộc địa nửa phong kiến, LLSX còn thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XH và nền độc lập của nhân dân ta”.Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ TBCN? Giải quyết vấn đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
    Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ TBCN” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập CNXH với CNTB bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở các nước XHCN trước đây. Vì vậy, Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần IX đã nói rõ bỏ qua chế độ TBCN là: “bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Bỏ qua chế độ TBCN thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá trình lên CNXH nhưng rút ngắn không phải đốt cháy giai đoạn duy ý chí coi thường qui luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi CNXH” hoặc coi nhẹ SX hàng hóa .v.v Trái lại phải tôn trọng qui luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường rút ngắn là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở CNTB không chỉ về LLSX mà cả về QHSX, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, như Lênin đã nói về CNXH ở nước Nga trước đây và sự kết hợp nhiệt tình cách mạng cao của nước Nga với kỹ thuật hiện đại trong Tơrớt của Mỹ và nghệ thuật quản lý trong ngành đường sắt của Đức.
    Do xuất phát từ trình độ đang còn thấp, chưa trải qua phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất ở nền kinh tế Việt Nam đang còn thiếu cả về mặt số lẫn lẫn chất lượng, cả về mặt trình độ lẫn tính chất xã hội hóa. Vì thế mặc dù xác định con đường phát triển của Việt Nam là bỏ qua phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng hình thức quá độ của Việt Nam được xác định đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đó có nghĩa cần phải xác định rõ xu hướng phát triển từ một nền kinh tế đang ơ trình độ thấp tới trình độ phát triển cao hơ, hay đó là sự xác định quỹ tích cho sự vận động cách mạng Việt Nam. Không những thế, định hướng còn là việc tổ chức thực hiện thông qua từng bước đi, từng giai đoạn, mà sau mỗi bước đi, mỗi giai đoạn đó se đưa Việt Nam sẽ tới gần hơn với chủ nghĩa xã hội. Không những thế đó còn là quá trình không ngừng đấu tranh với mặt đối lập đó là: khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa bởi nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngoài. Nguyên nhân bên trong là thiếu nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam , từ đó thiếu bản lĩnh, thiếu trình độ, thiếu đoàn kết. Nguyên nhân bên ngoài, đó là các âm mưu diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
    Bỏ qua chế độ tư bản, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đây là con đường phát triển “rút ngắn”. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Xét một cách tổng thể , từ năm 1955 đến nay, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau. Căn cứ vào đặc trưng của mỗi thời kỳ, có thể phân chia sự phát triển và biến đổi về kinh tế của nước ta qua bốn thời kỳ khác nhau: Từ năm 1955 đến năm 1964; Từ năm 1965 đến năm 1974; Từ năm 1975 đến năm 1986; Từ năm 1986 đến nay.
    Về mô hình kinh tế trước đổi mới (1986) là mô hình kinh tế hành chính có các nét đặc trưng sau: Mô hình đó được tổ chức theo hệ thống hành chính để tạo thành cơ cấu cho nền kinh tế cả về chiều dọc lẫn chiều ngang. Vận hành theo cơ chế hành chính, thông qua các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu. Các công cụ để vận hành nền kinh tế, mà quan trọng nhất là hệ thống kế hoạch hóa, đó là hệ thống công cụ của hệ thống hành chính và kế hoạch hóa là kế hoạch hóa trực tiếp.
    Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mà mô hình kinh tế đó đã hình thành và tồn tại trong một thời gian dài ở Việt Nam. Sự tồn tại đó chỉ có thể giải thích đó là một sự phù hợp với đòi hỏi của thực tế khách quan. Đó là các hoạt động kinh tế không nhằm vào hiệu quả kinh tế mà nhằm vào mục tiêu chính trị trực tiếp khi đó: đó là sự bảo đảm cho sự thắng lợi cho cuộc cách mạng dân tộc. Chính sự phù hợp đó đã góp phần rất quan trọng cho mục tiêu chính trị đó được thực hiện thắng lợi. Tuy nhiên, khi mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc đã thành công, xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu trước mắt, nền kinh tế phải trở về với quy luật khách quan và mô hình kinh tế hành chính đã chứng tỏ không còn phù hợp, vì mô hình đó không những không có thể thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mà còn đẩy nền kinh tế Việt Nam vào khủng hoảng. Do đó Việt Nam phải nhận thức lại và thực hiện đổi mới mô hình kinh tế.
    Thời kỳ từ năm 1986 đến nay, đó là thời kỳ đổi mới toàn diện mô hình kinh tế thông qua những nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX. Mô hình kinh tế cũ bị xóa bỏ, mô hình kinh tế mới được xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ phát triển của nền kinh tế.
    Mô hình kinh tế hiện nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế ở Việt Nam là kinh tế thị trường, trước hết để phân biệt với mô hình kinh tế hành chính trước kia và còn là phân biệt với kinh tế hàng hóa giản đơn.
    Nói đến kinh tế thị trường Việt Nam còn có sự phân biệt với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vì tuy có những mặt giống nhau do tính thị trường và tính quá độ của thời đại ngày nay qui định, nhưng việc khác biệt cơ bản trong đó là tính định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trong :chế độ sở hữu; trong các thành phần kinh tế; trong cơ chế vận hành; trong hệ thống phân phối.
    Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, văn kiện Đại hội đảng lần IX có đoạn viết: “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của đảng ta.
    Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.” (VKĐHĐ lần IX, trang 84)
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...