Thạc Sĩ Tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước nghành mía đường Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế t

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 5/4/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU

    Đường là loại thực phẩm thiết yếu cho cuộc sống . Dưới gốc độ nào đó , mức tiêu thụ đường còn là biểu hiện của mức sống , trình độ phát triển của quốc gia thông qua mức tiêu dùng bình quân đầu người . Công nghiệp nghiệp sản xuất mía đường phù hợp với các nước đang phát triển nằm ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá ( nguồn tài lực còn yếu kém nhưng có nguồn lao động dồi dào ) . Điều này giải thích lý do tại sao Đài Loan và nhiều nước khác ở những thập niên 70, 80 đã phát triển mạnh công nghiệp mía đường và đưa lại tích luỹ tư bản khá lớn, nay đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước thứ ba đang trên đường thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
    Với điều kiện là một quốc gia có tiềm năng về đất trồng mía và có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển ngành mía đường, vừa để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, vừa thay thế nhập khẩu . Trong mục tiêu công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và nhằm khai thác các lợi thế trên, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đặt ra phương hướng, nhiệm vụ cho ngành mía đường là : “ Đầu tư chiều sâu, mở rộng các nhà máy hiện có . Xây dựng một số nhà máy có qui mô vừa và nhỏ ở những vùng nguyên liệu nhỏ; ở những vùng nguyên liệu tập trung lớn, xây dựng nhà máy có thiết bị tiên tiến, hiện đại, kể cả liên doanh nước ngoài . Sản lượng năm 2000 khoảng một triệu tấn “ ́

    Năm 1994, từ qui mô chỉ với 12 nhà máy đường công nghiệp với tổng công suất 10.300 tấn/ngày và đa phần là các cơ sở thủ công, sản lượng cả nước đạt khoảng 270.000 tấn . Khi chương trình mía đường triển khai đến kết thúc vụ mía 2002 – 2003, cả nước có 44 nhà máy đường công nghiệp, với công suất 82.950 tấn/ngày - sản xuất được 1.056.188 tấn, cộng với lượng sản xuất thủ công thì tổng sản lượng đường cả nước là 1.206.188 tấn, đã đạt và vượt yêu cầu theo chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội VIII đề ra .
    Trong tổng số 44 nhà máy, khối Doanh nghiệp Nhà nước có 36 nhà máy, chiếm tỷ trọng 33 % tổng vốn đầu tư và 58% sản lượng đường sản xuất đây là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong toàn ngành .
    Bên cạnh những thành tựu đạt được, do nhiều nguyên nhân cả khách và chủ quan, ngành mía đường Việt Nam nói chung và khối Doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, đã phát sinh nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững như : tính cạnh tranh thấp, cấu trúc vốn không phù hợp, phần lớn các doanh nghiệp đều khó khăn về mặt tài chính và bị thua lỗ kéo dài .
    Trong điều kiện một quốc gia đang phát triển, đi lên chủ yếu từ nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến mía đường Việt Nam vẫn được xác định là một ngành kinh tế trọng yếu . Trong những năm tới đây ta phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường nội địa theo yêu cầu cắt giảm thuế nhập khẩu và bãi bỏ hàng rào phi quan thuế của khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) và Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) . Việc xoá bỏ bảo hộ sản xuất sẽ gây áp lực lớn hơn nữa và đặt các nhà máy đường trước thử thách càng gay gắt . Trước bối cảnh trên, yêu cầu cấp bách đặt ra là cần có được một giải pháp kịp thời, phù hợp, giúp các nhà máy đường bức ra khỏi được tình trạng “ suy thoái “ hiện nay, đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững .

    Xuất phát từ thực tế trên, và là một người đã làm việc trong ngành, tôi chọn đề tài “ TÁI CẤU TRÚC CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI “ .

    Mục tiêu của luận văn : Nghiên cứu thực trạng ngành mía đường Việt Nam – đi sâu vào khối DNNN, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động, cấu trúc vốn và tình hình tài chính . Qua đó, căn cứ vào định hướng phát triển ngành trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới mà đề xuất một số giải pháp nhằm sắp xếp, tái cấu trúc lại khối DNNN, góp phần đưa ngành mía đường Việt Nam có điều kiện phát triển và nhanh chóng hoà nhập nền kinh tế thế giới .

    Về phương pháp luận : Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng . Luân văn quán triệt các nguyên tắc khách quan, toàn diện, thống nhất giữa lịch sử và logic, kết hợp phương pháp thống kê, phân tích, dự báo trong quá trình nghiên cứu và sử dụng các tài liệu có liên quan đến đề tài .

    Đối tượng , phạm vi nghiên cứu : Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về tình hình tài chính, cấu trúc tài chính, vấn đề tái cấu trúc các DNNN ngành mía đường Việt Nam, kèm theo là những giải pháp tầm vĩ mô và vi mô có liên quan .

    Kết cấu của luận văn :
    Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được rình bày theo nội dung sau :
    Chương 1 : Lý luận về cấu trúc tài chính và tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp .
    Chương 2 : Thực trạng về tình hình tài chính, cấu trúc tài chính và các chính sách đối với DNNN ngành mía đường Việt Nam thời gian qua .
    Chương 3 : Tái cấu trúc các DNNN ngành mía đường Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới .
    Do thời gian, khả năng nghiên cứu có hạn, Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót . Rất mong Quí Thầy, Cô, các đồng nghiệp và các bạn quan tâm đến đề tài góp ý, bổ sung để đề tài mang tính hiện thực cao hơn .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...