Báo Cáo Tác động của tự do hoá thương mại tới ngành mía đường việt nam

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI TỚI NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM

    Trần Công Thắng - 2004




    Để đánh giá tác động của tự do hoá thương mại (TDHTM) và hội nhập tới ngành hàng mía đường Việt Nam, Mô hình mô phỏng chính sách "MOVISUT" (Model of Vietnam Sugar Trade) được áp dụng. MOVISUT nhằm tạo một khung phân tích tác động của TDHTM và Hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành hàng mía đường. Các thông số của mô hình được ước tính bằng phương pháp hồi qui thống kê dựa trên số liệu lịch sử có sẵn, hoặc kế thừa từ các công trình nghiên cứu liên quan. Mục tiêu của MOVISUT là lượng hoá ảnh hưởng của các chính sách thương mại dưới tác động của các cú sốc bên ngoài đến một số biến quan trọng liên quan đến ngành mía đường trong nước, như diện tích, năng suất, sản lượng mía, giá cả, tiêu dùng và xuất nhập khẩu đường. Dưới đây là phần mô tả khái quát cấu trúc của mô hình.

    Các kịch bản mô phỏng đều áp dụng cho giai đoạn từ 2005 đến 2020. Qui mô dân số và mức thu nhập (GDP bình quân đầu người) là những nhân tố quan trọng quyết định đến cầu của mặt hàng đường trong tương lai. Trong mô hình, dân số và GDP (như đã nói ở trên) được giả định có tốc độ tăng trưởng hàng năm tương ứng là 1,2% và 6%. Những tiến bộ về năng suất cây trồng và điều kiện khí hậu thời tiết, đặc biệt là lượng mưa hàng năm, là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cung của ngành hàng mía đường và được dùng như như các biến ngoại sinh. Trong mô hình, năng suất mía đường được giả định tăng hàng năm 1%. Lượng mưa cho các năm trong giai đoạn 2005-2020 được tính dựa trên phân bổ xác xuất ngẫu nhiên của 20 năm gần đây. Khối lượng đường chế biến công nghiệp được giới hạn bởi công suất của các nhà máy phân theo 3 nhóm qui mô: Qui mô lớn (>= 2000 TMN), Qui mô trung bình (1001-2000 TMN) và Qui mô nhỏ (=< 1000 TMN). Mô hình giả định nếu chi phí khả biến tính trên 1 đơn vị sản phẩm chế biến (tương ứng với từng nhóm nhà máy) cao hơn mức giá thị trường tính bình quân của 3 năm trước liền kề, thì các nhà máy chỉ có thể sử dụng không quá 60% công suất thiết kế.

    Kịch bản 0: Không có tự do hoá thương mại đối với ngành mía đường.

    Giả định trong tương lai Việt Nam vẫn duy trì các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước đối với ngành hàng mía đường, không tham gia các cam kết quốc tế về mở của thị trường đường nội địa và áp dụng các rào cản thương mại bằng thuế quan và phi thuế quan ở mức cao nhằm khống chế nhập khẩu đường ở mức xấp xỉ bằng 0, giống như hiện nay. Như vậy trong kịch bản 0, lượng cung, cầu và giá cả thị trường đường nội địa sẽ chủ yếu do quan hệ cung cầu trong nước quyết định. Kịch bản 0 được sử dụng như một đối chứng để so sánh với các kịch bản thực hiện TDHTM và hội nhập quốc tế.

    Biểu 3.1. Kết quả mô hình theo Kịch bản 0

    Tổng cung 1000 đ Tổng cầu
    1000 đ Giá bán buôn đ/kg % cung so cầu

    Năm 2005 1296 1296 4820 100.0
    Năm 2010 1450 1450 5649 100.0
    Năm 2020 1836 1836 7764 100.0
    % Biến đổi hàng năm 2.3 2.3 3.2
    % 2020 so với 2005 41.7 41.7 61.1

    Trong kịch bản 0, do không thực hiện các cam kết về TDHTM và mở cửa thị trường cho đường nhập khẩu, nên sản xuất mía đường của Việt Nam năm 2020 sẽ tăng gấp 1,5 lần so với mức hiện tại và người tiêu dùng do không có đường nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chấp nhận giá cao hơn khoảng 1,7 lần. Tuy nhiên với mức giá trong nước cao do không có cạnh tranh quốc tế, tất cả các nhà máy chế biến đường trong nước cả qui mô lớn lẫn qui mô vừa và nhỏ đều có lãi cao.

    Các Kịch bản về TDHTM từ 1 đến 4 được giả định thực hiện các biện pháp tháo gỡ các rào cản thương mại và lộ trình cắt giảm thuế đối với mặt hàng mía đường cụ thể như sau: thuế nhập khẩu đường giảm dần từ mức 50% trong năm 2002 xuống còn 20% vào năm 2005 và sẽ bằng 0% kể từ năm 2010 trở đi. Bốn kịch bản trong điều kiện thực hiện hội nhập và TDHTM sẽ chỉ khác nhau ở các giả định về biến động giá quốc tế và tỉ giá hối đoái theo các hướng tăng hoặc giảm khác nhau. Ảnh hưởng của các kiểu biến động giá quốc tế tới thị trường đường nội địa sẽ được mô phỏng và lượng hoá, nhằm tạo cơ sở cho việc đề ra các giải pháp, chính sách phát triển ngành trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

    Kịch bản 1: Giả định trong giai đoạn 2005-2020 giá thế giới giảm trong khi tỉ giá hối đoái (TGHĐ) của Việt Nam sẽ tăng

    Giá quốc tế (giá CIF) giả định sẽ giảm bình quân 1,25 % năm (tức giảm 17,2 % cho cả giai doạn 2005-2020) và TGHĐ tăng 1% năm (tức tăng 16.1 %), do vậy giá quốc tế tính bằng tiền Việt Nam năm 2020 so với 2005 chỉ giảm xấp xỉ 4 %. Dưới tác động của giảm giá quốc tế, cầu trong nước năm 2020 so với 2005 sẽ tăng khoảng 1,5 lần, trong khi cung trong nước chỉ tăng khoảng 13 % và đáp ứng khoảng 44 % tổng tiêu dùng đường. Do cầu về đường trong nước vẫn liên tục tăng dưới tác động của tăng dân số và tăng thu nhập, nên giá bán buôn trong nước trong cả giai đoạn 2005-2020 chỉ giảm gần 10 % và vẫn đạt trên 4000 đ/kg. Với mức giá này thì phần lớn các nhà máy vẫn có khả năng có lãi. Như vậy, TGHĐ biến động ngược với xu thế giảm giá quốc tế sẽ làm yếu đi đáng kể tác động bất lợi tới ngành mía đường Việt Nam.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...