TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: SURFING THE WAVES OF GLOBALIZATION: ASIA AND FINANCIAL LOBALIZATION IN THE CONTEXT OF THE TRILEMMA Lướt sóng Toàn cầu hóa: Châu Á và Toàn cầu hóa Tài Chính dưới góc độ Bộ Ba Bất Khả Thi + GVHD : Ts Nguyễn Khắc Quốc Bảo + Nhóm thực hiện : Nhóm 6 1/ Phan Kim Tuyến 2/ Nguyễn Minh Hiển 3/ Phạm Nguyên Anh 4/ Võ Thị Mỹ Hạnh 5/ Trần Viết Lâm 6/ Võ Nguyễn Huỳnh Nam 7/ Nguyễn Chí Thành 8/ Nguyễn Chí Trung 9/ Nguyễn Tấn Trung 10/ Vũ Thị Vinh 11/ Trần Thị Hải Yến 12/ Ngô Thị Mỹ Hằng 13/ Dư Minh Hiếu 14/ Nguyễn Thị Lệ Huyền 15/ Dương Kim Phú 16/ MaiVăn Luông + Lớp : TCDN NGÀY 1 – K20 TP HCM, năm 2012 1 MỤC LỤC ---oOo--- LỜI MỞ ĐẦU Trang 3 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Trang 4 TỔNG QUAN (*) Trang 5- 11 PHẦN I – 1- Tóm tắt 2- Giới thiệu PHẦN II – CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN BỘ BA BẤT KHẢ THI (*) Trang 12-43 1- Sự phát triển của thước đo bộ ba bất khả thi 2- Phân tích hồi quy 3- Các kết quả ước lượng từ các mô hình cơ bản 3.1. Sự biến động của sản lượng 3.2. Sự biến động của lạm phát 3.3 Mức lạm phát trung bình 4- Những gợi ý đối với Châu Á 5- Nghiên cứu thêm về sự bất ổn trong tăng trưởng và những sự lựa chọn bộ ba bất khả thi 5.1. Các kênh dẫn đến bất ổn trong tăng trưởng 5.2. Một cái nhìn cận cảnh hơn về các kênh truyền dẫn và các gợi ý chính sách cho khu vực châu Á PHẦN III – KẾT LUẬN (*) Trang 44-46 PHỤ LỤC: : THƯỚC ĐO BỘ BA BẤT KHẢ THI Trang 47-48 (*): Tên chương không có trong bài nghiên cứu mà do nhóm tự đặt để dễ theo dõi 2 LỜI MỞ ĐẦU Việc lựa chọn “bộ ba bất khả thi”, bao gồm các chính sách về Độc lập tiền tệ , Ổn định tỷ giá và Hội nhập tài chính, có liên quan đến mức biến động sản lượng của nền kinh tế và mức độ lạm phát trung hạn như thế nào, luôn là một câu hỏi cho các nhà phân tích kinh tế vĩ mô cũng như các chuyên gia tài chính. Bài nghiên cứu “Lướt sóng Toàn cầu hóa: Châu Á và Toàn cầu hóa Tài Chính dưới góc độ Bộ Ba Bất Khả Thi” của Joshua Aizeman và các cộng sự (2010) cho chúng ta thấy được một cái nhìn rất mới về bộ ba chính sách này, nhằm trả lời câu hỏi trên. Do đó, trong phạm vi bài tiểu luận môn học Tài chính quốc tế, nhóm 6 – TCDN K20 ngày 1 - dựa trên bài nghiên cứu sẽ trình bày những vấn đề liên quan đến bộ ba bất khả thi nhằm cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích. Trong điều kiện hạn chế về thời gian và rút gọn trong phạm vi một tiểu luận, bài viết chắc rằng có nhiều chỗ còn hạn chế, rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn và các bạn đề bài viết được hoàn chỉnh hơn, xin chân thành cảm ơn. Trân trọng Nhóm 6, lớp Ngày 1 TCDN – Khóa 20 3 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT EMG : Các quốc gia mới nổi ERS : Ổn định tỷ giá FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài IDC : Các quốc gia công nghiệp hóa IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế IR : Dự trữ ngoại hối KAOPEN : Độ mở tài khoản vốn LDC : Các quốc gia đang phát triển MI : Độc lập tiền tệ 4 PHẦN I TÓM TẮT & GIỚI THIỆU 1/ TÓM TẮT “Chỉ số bộ ba bất khả thi” được phát triển bởi Aizenman và cộng sự (2008) để đo lường mức độ đạt được trong từng mục tiêu chính sách. Đó là: 1/ Độc lập tiền tệ 2/ Ổn định tỷ giá 3/ Hội nhập tài chính Trong bài viết này chúng tôi nghiên cứu xem các cấu trúc chính sách tác động như thế nào đến hiệu quả kinh tế vĩ mô, trong đó tập trung vào các nền kinh tế trong khu vực châu Á. Chúng tôi thấy rằng việc lựa chọn 3 chính sách này có liên quan đến mức độ bất ổn định trong tăng trưởng và mức độ lạm phát trung hạn. Chính sách tiền tệ càng độc lập thì mức độ bất ổn định trong tăng trưởng càng thấp, trong khi tỷ giá hối đoái càng ổn định thì mức độ bất ổn định trong tăng trưởng càng cao, mức độ bất ổn này có thể được giảm nhẹ nếu mức dự trữ ngoại hối của quốc gia vượt quá một ngưỡng nào đó (thường vào khoảng 20% GDP). Độc lập tiền tệ càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao, trong khi tỷ giá hối đoái càng ổn định và thị trường tài chính hội nhập càng sâu thì càng góp phần làm giảm mức độ lạm phát. Chúng tôi phát hiện rằng cấu trúc bộ ba bất khả thi và tài trợ nước ngoài tác động đến mức độ bất ổn định trong tăng trưởng thông qua đầu tư hoặc kênh thương mại dựa trên mức độ hội nhập của các nền kinh tế. Sự ổn định tỷ giá ở mức độ cao có thể làm ổn định tỷ giá hối đoái thực, nó cũng có thể làm đầu tư biến động, bởi vì mức độ biến động của đầu tư do chính sách ổn định tỷ giá tạo ra có thể bị triệt tiêu bằng cách sở hữu một lượng dự trữ ngoại hối lớn. Các kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng các nhà tạo lập chính sách trong một nền kinh tế mở thích theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá hơn khi có một lượng lớn dự trữ ngoại hối. Các nền kinh tế mới nổi ở khu vực châu Á được trang bị các cấu trúc chính sách vĩ mô giúp các nền kinh tế này làm giảm sự biến động của tỷ giá hối đoái thực. Lượng dự trữ ngoại hối đáng kể của các nền kinh tế này dường như củng cố hiệu ứng ổn định hóa của việc lựa chọn chính sách bộ ba, và qua đó góp phần giải thích hiện tượng tích trữ ngoại hối gần đây của các quốc gia trong khu vực châu Á. 5 2/ GIỚI THIỆU Khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, làn sóng khủng hoảng toàn cầu lan nhanh đến nền kinh tế nhiều nước, trong đó có các nước ở khu vực châu Á, vào mùa hè năm 2008, tàn phá các nền kinh tế trên quy mô toàn cầu cuối năm 2008. Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) thì nước Mỹ, các nước ở khu vực châu Âu và Nhật Bản được dự báo sẽ tăng trưởng âm trong năm 2009, lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Nền kinh tế của các nước mới nổi và các nước đang phát triển được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 1,7%, tụt giảm nhiều so với mức 8,3% trong năm 2007 và 6% trong năm 2008. Châu Á cũng không là ngoại lệ; các nước công nghiệp hóa mới của khu vực châu Á được dự báo giảm 2,4% trong năm 2009, và 2 quốc gia tăng trưởng cao – Trung Quốc và Ấn Độ - được dự báo sẽ giảm mạnh xuống mức 7,5% và 5,4%. Rõ ràng rằng, các quốc gia đang trãi qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tệ nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 2009, đã có một vài tín hiệu hồi phục trong số những nền kinh tế này. Thậm chí ở Mỹ, tâm chấn của cuộc khủng hoảng, đã bắt đầu cho thấy các dấu hiệu hồi phục vào mùa hè 2009. Tuy các nền kinh tế nhỏ hơn dường như vẫn ở trong tình trạng yếu ớt, nhưng các nền kinh tế mới nổi lớn hơn ở châu Á đã bắt đầu cho thấy việc phục hồi vững chắc từ các số liệu kinh tế thu nhận được. Vào quý 2 của năm 2009, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các nước mới nổi ở khu vực châu Á đã tăng trung bình hàng năm hơn 10% trong khi nền kinh tế Mỹ giảm 1%. Vào tháng 7/2009, Trưởng ban Kinh tế của Ngân hàng phát triển châu Á Jong-Wha Lee nhận định “Các nước mới nổi ở khu vực Đông Á mới nổi có thể phục hồi theo dạng chữ V, với tăng trưởng đạt tới điểm đáy trong năm 2009 trước khi đi lên trong năm 2010”. 1 Kiểu phục hồi theo dạng chữ V ở châu Á không phải là một tiền lệ mà trước đây chưa từng xảy ra. Trong thực tế, nhiều nền kinh tế trong vùng đã có kiểu hồi phục như thế từ sau hậu quả của cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-1998. Bất chấp sự sụt giảm sản lượng nghiêm trọng trong năm 1998, các quốc gia bị khủng hoảng châu Á vẫn cho thấy một sự phục hồi rõ rệt với sự tăng trưởng vững chắc trong xuất khẩu và sản lượng trong năm 1999. Park và Lee (2002) cho rằng việc phục hồi nhanh là nhờ thuộc tính của việc mở cửa của những nền kinh tế 1 Tạp chí Asia Development Bank, xuất bản ngày 23 tháng 7 năm 2009, www.adb.org/Media/Articles/2009/12944-east-asian-economics-growths/ 6 này, và sự gần gũi của họ đối với phần các nước khác. Sự phục hồi mạnh mẽ của châu Á lần này không những ấn tượng mà còn gây ngạc nhiên vì, không như sự phục hồi từ hậu quả của cuộc khủng hoảng châu Á, nền kinh tế Mỹ không cung cấp “nhu cầu cuối cùng” (Aizenman và Jinjarak, 2008), những nhu cầu có thể được dự báo trước trong nền kinh tế thế giới. Nếu các quốc gia châu Á cho thấy sự phục hồi ổn định trong khi những quốc gia tiên tiến khác không làm được, có lẽ là do 2 lý do sau. Thứ nhất, sự phục hồi vững chắc là một bằng chứng cho thấy nền kinh tế của các quốc gia châu Á được “tách rời” những nền kinh tế tiên tiến. Thứ hai, các quốc gia châu Á, hầu hết đều có nền kinh tế hội nhập giao thương quốc tế về hàng hóa và tài sản tài chính, đều có bước chuẩn bị tốt hơn để đối phó với khủng hoảng kinh tế trong một môi trường toàn cầu hóa cao. Hình 1 cho thấy tính bất ổn trong tăng trưởng – được đo lường bằng độ lệch chuẩn của tỷ lệ tăng trưởng GDP theo đầu người – của các nền kinh tế mới nổi trong khu vực châu Á được duy trì ở mức thấp tương ứng so với những nước công nghiệp hóa. Một sự phỏng đoán thú vị là những quốc gia này đã thừa nhận các chính sách kinh tế quốc tế buộc họ phải hoàn thiện hiệu quả kinh tế vĩ mô. Trong khi chúng tôi vẫn phải chờ thêm vài năm nữa để có thể thu thập cho đủ dữ liệu nhằm tiến hành phân tích đầy đủ luận điểm “tách rời”, chúng tôi có thể nghiên cứu xem liệu kinh tế châu Á có được chuẩn bị tốt để đương đầu với toàn cầu hóa bằng việc xem xét những gì đã xảy ra trong 2 thập kỷ vừa qua. Đây là chủ điểm chính của bài nghiên cứu này.