Tiểu Luận Sự truyền động của tỷ giá hối đoái ở thị trường các nước mới nổi

Thảo luận trong 'Tài Chính Thuế' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    SỰ TRUYỀN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC MỚI NỔI
    SỰ TRUYỀN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC MỚI NỔI

    Tóm tắt

    Bài nghiên cứu này xem xét mức độ truyền động của tỷ giá (ERPT) đến giá cả ở 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, và Trung và Đông Âu. Kết quả của chúng tôi, dựa trên ba mô hình tự hồi quy vec-tơ thay thế, một phần làm đảo lộn lối suy nghĩ thông thường cho rằng ERPT đối với cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng luôn cao hơn ở các quốc gia đang phát triển so với các quốc gia phát triển. Đối với thị trường mới nổi với mức lạm phát chỉ một con số (nhất là các nước châu Á), sự truyền động đối với giá nhập khẩu và giá tiêu dùng được nhận thấy là thấp và rất không đồng đều so với mức phổ biến ở các nước phát triển. Nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về mối quan hệ tích cực giữa mức độ ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor một khi hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) được loại trừ khỏi phân tích. Cuối cùng, mối liên hệ chặt chẽ giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, trong khi phù hợp về mặt lý thuyết lại chỉ tìm thấy bằng chứng hỗ trợ thực nghiệm mờ nhạt.

    Khái quát nội dung chính

    Hiểu được ảnh hưởng của những tác động của tỷ giá hối đoái lên giá cả là cần thiết đứng trên phương diện chính sách để giúp đo lường sự phản ứng của chính sách tiền tệ phù hợp đối với sự vận động của đồng tiền. Những nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng sự truyền động trong tỷ giá hối đoái và giá cả không phải là một một từ ngắn hạn đến trung hạn. Một nghiên cứu lý thuyết mở rộng, phát triển qua 3 thập kỷ qua, đã đưa ra những lý giải khác nhau về lý do tại sao sự truyền động của tỷ giá hối đoái lên giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là không hoàn toàn trọn vẹn. Những phân tích thực nghiệm cũng cung cấp những bằng chứng về sự khác biệt đáng kể về ERPT giữa các quốc gia. Taylor (2000) đã đưa ra 1 luận chứng chính cho vấn đề này, đưa ra giả thuyết rằng phản ứng của giá cả đối với sự giao động của tỷ giá hối đoái phụ thuộc hoàn toàn vào lạm phát.

    Bài nghiên cứu này xem xét mức độ của ERPT đến giả cả ở 12 thị trường mới nổi ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Để đạt được điều này, chúng tôi sử dụng một chiến lược mô hình hóa đã được McCarthy (2000) sử dụng nghiên cứu ở các nước phát triển và được Hahn (2003) ứng dụng ở các quốc gia sử dụng đồng tiền chung châu âu. Chúng tôi ước lượng mô hình tự hồi quy vec tơ, mô hình này gồm những đường chuẩn dựa trên những biến số về sản lượng đầu ra, tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng nội địa, lãi suất ngắn hạn và giá dầu. Phương pháp tiếp cận tự hồi quy vec tơ này tính đến cả yếu tố nội sinh có thể xảy ra giữa các biến lãi suất khác nhau. Những cú sốc về tỷ giá được xác định bằng cách sắp đặt thích hợp biến lãi suất và ứng dụng một cơ chế xác định hệ số đệ quy. Vì việc sắp đặt thứ tự các biến cũng có thể là vấn đề nên chúng tôi tiến hành 1 phân tích độ nhạy khi trật tự các biến thay đổi khác nhau. Để có thể so sánh, chúng tôi cũng đánh giá các mô hình có thể so sánh với mức chuẩn là các nước phát triển, cụ thể là các quốc gia sử dụng đồng tiền chung châu âu, Mỹ và Nhật Bản.

    Kết quả xác nhận rằng ERPT suy giảm theo chuỗi giá cả, nghĩa là sự truyền động tỷ giá thấp hơn ở tiêu dùng so với giá nhập khẩu. Cũng có bằng chứng cho thấy ít ảnh hưởng của tỷ giá ở các nước phát triển, đặc biệt là trường hợp của Mỹ và ít ảnh hưởng lên giá tiêu dùng ở Nhật. Theo những nghiên cứu trước đây, ERPT hơi cao hơn một chút ở khu vực đồng tiền chung châu âu so với Mỹ, cả về giá nhập khẩu và giá tiêu dùng. Phân tích của chúng tôi cũng phần nào thay đổi lối suy nghĩ thông thường rằng EPRT ở các nước mới nổi luôn cao hơn ở nước phát triển. Đối với các nền kinh tế đang nổi với mức lạm phát 1 con số (đặc biệt nhất là các quốc gia Châu Á trong mẫu của chúng tôi), ERPT thấp và rất không đồng đều so với mức phổ biến ở các nước phát triển. Tóm lại, bài nghiên cứu này chứng thực rõ ràng mối quan hệ chắc chắn giữa mức độ ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor. Kết quả này chỉ rõ ràng sau khi loại trừ 2 quốc gia (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) ra khỏi khảo sát, nếu những trở ngại trong việc đánh giá liên quan đến tình hình bất ổn vĩ mô nghiêm trọng thể hiện ở mẫu hai quốc gia này. Cuối cùng, mối liên hệ chặt chẽ giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, trong khi phù hợp về mặt lý thuyết lại chỉ tìm thấy bằng chứng hỗ trợ thực nghiệm mờ nhạt.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...