Tài liệu Sự phát triển về tư duy pháp lý trong pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    SỰ PHÁT TRIỂN VỀ TƯ DUY PHÁP LÝ TRONG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT








    Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế


    thị trường, xu thế hội nhập, toàn cầu hoá thì sự đổi mới trong lĩnh vực tư duy,


    nhận thức ngày càng có sự khác biệt diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực khác


    nhau: Trong lĩnh vực đất đai thì sự phát triển của tư duy, quan niệm pháp lý


    và quyền tài sản trong lĩnh vực này cũng đã có sự phát triển vượt bậc quan


    niệm của nhà nước về vai trò của đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường đã


    có sự thay đổi cho phù hợp. Khác với giai đoạn trước đây thời bao cấp. Nhà


    nước quan niệm đất đai là không có giá và không xem nó là một thứ tài sản.


    Coi nó như một thứ phúc lợi xã hội, Nhà nước thay mặt xã hội đứng ra điều


    phối.


    Có quan điểm như vậy là vì xuất phát từ luận điểm: Về nguồn gốc đất


    đai không do ai tạo ra, nó có trước con người do tự nhiên tạo ra dẫn đến pháp


    luật không có các qui định về khung giá đất.


    Pháp luật đất đai năm 1995 qui định: Nghiên cấm việc mua bán -


    chuyển nhượng đất đai, quan hệ chỉ là điều phối, các đối tượng sử dụng không


    phải nộp tiền sử dụng. Nhà nước bao cấp về nhà ở, đất đai.


    Khi chuyển sang cơ chế thị trường. Nhận thức về đất đai đã có sự thay


    đổi. Nhà nước đã thừa nhận đất đai có giá, xem nó là một tài sản đặc biệt. Giá


    trị của đất đai về cơ bản do 02 yếu tố tạo nên đó là:


    + Do tự nhiên tạo nên (giá trị ban đầu).


    + Do con người tạo ra trong quá trình sử dụng thông qua hàng loạt các


    hoạt động như: đầu tư, qui hoạch .


    Tại điều 12 - Luật đất đai 2003 qui định rõ ràng về khung giá đất để


    giao dịch trên thị trường vì:


    - Đất đai là tư liệu sản xuất đưa vào sản xuất, sử dụng và là


    1
    - Tư liệu tiêu dùng.


    Qui định như vậy bởi vì nó có giá trị độ bền vững cao như một thế chấp


    bảo lãnh cho các quan hệ tín dụng.


    Đồng thời nhà nước cho phép xác lập các giao dịch đất đai theo chiều


    ngang: cho phép người sử dụng đất được quyền chuyển nhượng theo qui luật


    của quan hệ giá trị, xoá bỏ bao cấp về đất đai, giao đất có thu tiền sử dụng


    đất - chuyển từ cơ chế xin - cho sang cơ chế đấu thầu về quyền sử dụng đất cả


    mặt thủ tục qui định cùng rất chặt chẽ khác với trước đây xem đất đai chỉ là


    một thứ tài nguyên thuộc sở hữu quốc gia, do tự nhiên tạo ra và nó chỉ tồn tại


    ở dạng tiềm năng thì giờ đây đất đai được xem là tài sản, là vốn, là nguồn lực


    để phát triển đất nước thông qua các chính sách qui hoạch của nhà nước.


    Đặc biệt, pháp luật đất đai ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ các


    quyền của người sử dụng đất nhằm giải pháp năng lực cho người lao động


    thông qua khoán sản phẩm . tư duy của nhà nước ta trong việc xây dựng pháp


    luật đất đai đã có sự đổi mới từ việc chỉ xác định hợp tác xã, tập đoàn sản


    xuất . là chủ thể sử dụng đất chủ yếu chuyển sang ghi nhận hộ gia đình, cá


    nhân là đơn vị kinh tế tự chủ của sản xuất nông nghiệp, được giao đất sử dụng


    ổn định lâu dài và được chuyển quyền sử dụng đất, đi liền với việc cấp giấy


    chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, pháp luật đất đai đã có các qui định đề


    cập đến việc bảo vệ các quyền của người sử dụng đất, qui định về cấp giấy


    chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm bảo hộ quyền của người sử dụng. Đồng


    thời đi liền với các qui định về quyền của người sử dụng, pháp luật còn có các


    qui định về trình tự, thủ tục cho việc chuyển nhượng quyền của người sử


    dụng đất.


    Để làm rõ vấn đề này, chúng ta hãy đi vào nội dung cụ thể được ghi


    nhận, đề cập trong luật đất đai năm 200. Cùng với hệ thống các văn bản pháp


    luật về đất đai hiện hành đã được sửa đổi và bổ sung.


    Thực tế cho thấy những năm gần đây chưa có một lĩnh vực nào lại ban


    hành nhiều luật, văn bản như lĩnh vực đất đai. Sự giới hạn này thể hiện trên


    một số quan điểm đó là:


    - Do ban hành quá nhiều văn bản nên không có tính nhất quán, hệ


    thống nêu rất khó điều chỉnh.


    - Là trọng điểm của việc khiếu kiện kêu oan do bởi giá trị của đất đai


    trong nền kinh tế thị trường đã hình thành.


    - Tham nhũng liên quan đến lĩnh vực đất đai xảy ra nhiều nhất.


    - Kinh doanh đất đai nhanh giàu nhất.


    - Quản lý đất đai lộn xộn nhất. Do bởi đất đai rơi vào trong một số cá


    nhân có chính quyền hướng lợi bất chính. Mô hình Luật đất đai (2003) được


    thông qua 26.11.2003, có hiệu lực vào ngày 16.11.2004.


    - Nghị định 181 thông qua 29.10,2004 có hiệu lực 25.11.2004.


    - Nghị định 182 về xử phạt vi phạm hành chính khi vi phạm các qui


    định về quản lý đất đai thông qua ngày 29.10.2004 và có hiệu lực ngày


    25.11.2004.


    - Nghị định 188 - qui định về khung giá đất ban hành 16.11.2004 có


    hiệu lực 11.12.2004.


    - Nghị định 198 - qui định về thu tiền sử dụng đất ban hành 3.12.2004


    có hiệu lực 18.12.2004.


    - Nghị định 197 về bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất.


    Các điểm mới cần được lưu ý đó là:


    1. Đã có sự đổi mới về hệ thống phân loại đất.


    Trước đây, theo luật đất đai năm 1993, căn cứ vào mục đích sử dụng


    chủ yếu, đất được phân thành 06 loại, bao gồm:


    - Đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất đô thị, khu dân cư nông thôn, đất


    chuyên dùng và đất chưa sử dụng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...